28.1.08

Bài ca ngàn trùng

Kính gởi quý vị Slideshow
"Đây Bài Ca Ngàn Trùng"
vinh danh tinh thần dấn thân cao độ của giáo dân
Hà Nội Hà Ðông tập hợp cầu nguyện quyết tử
đòi lại Toà Khâm Sứ, dưới sự lãnh đạo của
Đức TGM Ngô Quang Kiệt. Vinh danh các Thánh
Tử Đạo Công Giáo Việt Nam
(Lm Kim Long sáng tác "Bài Ca Ngàn Trùng")

27.1.08

Can trường và phi thường












Thật Can Trường

Nhân Dân Hà Nội thật can trường,
Chẳng ngại gian nguy với súng, gươm.
Nhất chí, nêu cao cây Thánh Giá,
Đồng tâm cầu khẩn Mẹ Trinh Vương.
Phá tan cổng sắt Tòa Khâm Sứ,
Triệt hạ công an lũ qủy vương.
Giành lại gia trang quyền Giáo Hội,
Nhân Dân Hà Nội thật can trường!!!

Joseph Duy Tâm

Phi Thường

hưởng ứng

Nhờ ơn Thiên Chúa quá phi thường
Công Giáo thủ đô mặc giáo gươm
Dũng cảm nguyện cầu bên Thánh Giá
Vững lòng trông cậy Đức Trinh Vương
Quyết đòi Công lý cho dân tộc
Quyết giữ Đức tin trước bạo cường*
Soi sáng lương tâm người cộng sản
Thắp lên ngọn lửa thật can trường

*Xin đổi một vần để tránh điệp vận

Trần Việt Yên

Sự trỗi dậy của truyền thông phi chính thống

Những diễn biến của vụ Trường Sa – Hoàng Sa cho tới sự việc tòa Khâm sứ đánh dấu một sự phát triển vượt bực của truyền thông phi chính thống ở Việt Nam.
Hơn 600 tờ báo chính thống do nhà nước quản lý đều giữ thái độ im lặng một cách khó hiểu trước hai sự kiện quan trọng được dư luận đặc biệt quan tâm trên.
Thế nhưng thông tin về những cuộc biểu tình yêu nước của thanh niên Việt Nam và việc cầu nguyện của giáo dân Hà Nội vẫn được cập nhật liên tục trên các phương tiện thông tin đại chúng phi chính thống.

Phi chính thống
Nhiều nhà quan sát nhận định rằng cuộc biểu tình ngày 19/12 sẽ không diễn ra nếu như Yahoo 360 không có mặt tại Việt Nam.
Nhận định khá xác đáng đó cho thấy vai trò quan trọng của các blogger trong việc duy trì thông tin và “định hướng dư luận” xung quanh cuộc biểu tình.
Tương tự, những cuộc cầu nguyện không thể kéo dài nếu như VietCatholic không truyền tải thông tin một cách liên tục trên mạng lưới truyền thông toàn cầu của mình.
Truyền thông phi chính thống đã đóng góp một vai trò tích cực và hiệu quả trong việc truyền tải thông tin.
Điều quan trọng nhất để một cuộc biểu tình có thể xảy ra chính là nhiều người biết được thông tin biểu tình sẽ diễn ra ở đâu, vào thời gian nào, vì sao lại biểu tình, cần phải có những hành động và chuẩn bị gì…
Trước đây vài năm, những thông tin được đánh giá là vô cùng nhạy cảm đó trong xã hội cộng sản chắc chắn không có cách nào có thể được lan truyền một cách rộng rãi. Lý do vì sao?
Môi trường công cộng là không gian cho phép tất cả những hình thức thông tin và đối thoại giữa con người với nhau và có tính hướng công cộng truyền thông.
Không gian này gồm báo chí (báo in, phát thanh, truyền hình) và xuất bản - gồm cả chính thức và không chính thức, các hành động tập thể hướng công luận như mít tinh, biểu tình, các diễn đàn, các vũ đài chính trị mở v.v.
Dưới sự quản lý của nhà nước theo kiểu độc tài toàn trị, không gian công bị nhà nước Việt Nam độc quyền kiểm soát và hầu như không còn tồn tại.

hế nhưng, không gian công đó lại “hồi sinh” mạnh mẽ trong vòng một thập niên trở lại đây nhờ vào một tiến bộ khoa học kỹ thuật bậc nhất của thế kỷ 20: Internet.
Khi mà báo chí, xuất bản chính thống đều bị nhà nước kiểm soát chặt chẽ thì những thông tin nhạy cảm chỉ có thể được loan truyền một cách rộng rãi qua các diễn đàn như x-cafevn.org, những trang tin như VietCatholic và đặc biệt là qua các blog.
Sự trỗi dậy mạnh mẽ của luồng thông tin phi chính thống đó đã góp phần mở ra những cuộc tranh cãi về chính trị - xã hội – những vấn đề vốn bị cấm kỵ ở Việt Nam.
Hơn nữa, những thông tin đó đã góp phần định hướng dư luận, yếu tố quan trọng bậc nhất góp phần vào thành công của những cuộc biểu tình và cầu nguyện vừa qua.

“Phi” thắng “chính”
Truyền thông phi chính thống đã có một cuộc thắng lợi ngoạn mục trước truyền thông chính thống trong hai sự kiện nổi bật đã nêu.
Trong khi từng phút một, những thông tin về cuộc biểu tình Trường Sa – Hoàng Sa được loan tải một cách nhanh chóng trên các diễn đàn, các blog thì báo chí nhà nước lại giữ một sự im lặng đáng sợ.
Những thông tin về việc cầu nguyện trước tòa Khâm sứ cũng được thông tấn xã công giáo - VietCatholic cập nhật liên tục hàng ngày.
Trong khi đó, trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam, người dân không thể nào biết được rằng ngay tại lòng thủ đô Hà Nội đang diễn ra một sự kiện đặc biệt chưa từng có từ khi chế độ cộng sản lên nắm quyền: giáo dân cầu nguyện tập thể để yêu cầu chính quyền trả lại đất đã chiếm của giáo hội.
Truyền thông chính thống thường không được phép đưa những tin như vụ đòi lại Tòa Khâm Sứ
Bộ máy truyền thông đảm nhận một vai trò tiềm ẩn nhưng rất quan trọng đó là: định hướng dư luận.
Việc Đảng Cộng sản kiên quyết không chấp nhận cho bất kỳ một tờ báo tư nhân nào ra đời ở Việt Nam cho thấy quyết tâm nắm vững dư luận.
Thế nhưng truyền thông nhà nước đã thua trong mặt trận định hướng thông tin trong hai sự kiện nổi bật vừa qua.
Trước đây, trong bối cảnh thông tin thiếu thốn, người dân chỉ có thể tiếp cận được những thông tin chính thống, không có sự cạnh tranh một cách lành mạnh, những đợt tuyên truyền của báo chí Việt Nam tỏ ra hiệu quả, điển hình là vụ kiện chất độc màu da cam, Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Sống mãi tuổi 20 mà Tuổi Trẻ luôn đi tiên phong.
Bây giờ, gió đã đổi chiều. Những sự kiện nổi bật nhất, gây sự quan tâm chú ý của dư luận nhất lại do chính những “nhà báo công dân”, những blogger tự do khởi xướng và tạo thành một phong trào đấu tranh mạnh mẽ không chỉ online mà còn offline.
Những cuộc biểu tình yêu nước phản đối Trung Quốc xâm lấn là một minh chứng sống động.

Phản ứng chậm chạp của truyền thông Việt Nam, đặc biệt là của những nhà báo dòng chính thống bởi những lý do sau:

Thứ nhất, kinh nghiệm làm báo của những nhà báo đó cho họ biết rằng đừng nên đưa tin về những vấn đề nhạy cảm nếu như không muốn có nguy cơ “treo bút”.
Một phóng viên của VietNamNet đã bị cho thôi việc khi viết và đăng tải quan điểm ủng hộ cuộc biểu tình Hoàng Sa - Trường Sa. Thậm chí tổng biên tập VietNamNet cũng có nguy cơ mất chức.

Thứ hai, những nhà báo có tên tuổi không muốn bị dư luận phê phán. Họ thừa hiểu rằng một bài viết đúng ý của Đảng thì sẽ đi ngược lại tinh thần của cuộc biểu tình. Do đó, họ cũng không “dại dột” viết một bài để rồi hứng chịu những lời trách móc nặng nề của dư luận.
Ngoại trừ những tờ báo vốn bị xem là những tờ báo lá cải phục vụ cho tầng lớp bình dân ở Việt Nam như Công An TPHCM, An ninh thế giới… thỉnh thoảng vẫn xuất hiện những bài viết đúng “ý đảng” nhưng không hợp “lòng dân”.
Vai trò truyền thông của dòng thông tin chính thống đang chịu đựng sự cạnh tranh mạnh mẽ bởi dòng thông tin phi chính thống. Về khía cạnh phát triển, đó là những tín hiệu đáng mừng khi mà thông tin ngày càng trở nên đa dạng, phong phú và nhiều chiều hơn.
Những nguyên tử bị cô lập, trôi nổi trong không gian công toàn trị, đã và đang liên kết lại với nhau ngày một chặt chẽ hơn để hình thành một mạng lưới thông tin chặt chẽ.

Một bức tranh truyền thông tự do, độc lập, tươi sáng hơn của Việt Nam đã được thành hình.
Hoàng Xuân Ba (BBC)

21.1.08

Hào kiệt đất phương Nam


Cảm xúc khi nhìn bức hình 8 sinh viên trong nước đứng biều tình ôn hoà trước Nhà Hát Sàigòn, nơi đã từng là biểu tượng cho sức mạnh toàn dân Miền Nam Việt nam ( Quốc Hội/VNCH )

Tám người hào kiệt đất phương Nam
Ngẩng mặt xông lên đứng một hàng
Thách đố bạo quyền loài khiếp nhược
Chẳng sờn ác đảng vẫn hiên ngang
Hoàng sa là máu xương nòi giống
Hải đảo mất rồi đứt ruột gan
Yêu nước hởi ai cùng huyết thống
Đứng lên hỏi tội lũ tham tàn

Trần Việt Yên 21- -1 -2008
8 HÀO KIỆT MIỀN NAM

BÀI HỌA

Khí tiết sung thiên, Nam Việt Nam,
Chống quân cướp nước, quyết không hàng.
Chẳng sờn chuyên chính phường nhìn ngược,
Há sợ độc tài, lũ ngó ngang
.Bản Dốc còn đâu, sầu tím ruột,
Trường Sa mất cả, hận bầm gan.
Hùng Vương Quốc Tổ đang kêu réo,
Cả nước vùng lên chống bạo tàn !!!…

21-01-2007 TRƯỜNG GIANG

Chúc Mừng sinh nhật con dâu




Nhân ngày sinh nhật của con
Ba má chúc con đưọc hạnh phúc và yêu thương
Ba má
Trần Việt Yên và Thuỳ Dương

17.1.08

Hình ảnh Sàigòn năm 1969

Xin bấm vào links sau đây để xem hình ảnh Saigon thân yêu ngày xưa
http://photo.net/photodb/slideshow?folder_id=359543
Thân mến

16.1.08

Máu Truyền Tín Hiệu Tới Não, Giúp Suy Nghĩ, Phán Đoán

Túi khôn nhân loại
Lưu Ly (theo Livescience - )
Chúng ta có thể suy nghĩ, nhận thức, phán đoán được các sự vật hiện tượng là nhờ có các mạch máu và lượng oxygen thường xuyên được dẫn truyền đến các tế bào não.
Công trình nghiên cứu được các nhà khoa học của viện MIT khám phá rằng hàng ngày khi chúng ta dung nạp các chất dinh dưỡng và lượng oxygen vào cơ thể, các tế bào trong cơ thể sẽ hấp thu nguồn năng lượng này. Máu sẽ được cung cấp cho hoạt động của các neuron ở não theo chu kỳ vòng tuần hoàn, máu sẽ giúp truyền các tín hiệu thông tin hỗ trợ lẫn nhau cũng như điều hòa hoạt động của các cơ quan ở não bộ.
“Chúng tôi nhận thấy rằng máu tích cực hoạt động giúp các neuron xử lý thông tin. Nhiều bằng chứng kết luận máu có chức năng thật tuyệt vời không phải chỉ làm nhiệm vụ điều phối cung cấp, mà chúng còn giúp các neuron điều chỉnh các tín hiệu tạo sự đa dạng trong chức năng hoạt động của não bộ ”, chuyên viên nghiên cứu Christopher Moore cho biết trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí the Journal of Neurophysiology.
Mối quan hệ giữa các mạch máu và chức năng của não bộ có sự liên hệ mật thiết đối với các căn bệnh thuộc hệ thần kinh như bệnh Alzheimer (bệnh mất trí nhớ), bệnh tâm thần phân liệt, bệnh sơ cứng phức tạp, bệnh động kinh.
“Hầu hết mọi người đều cho rằng triệu chứng của những căn bệnh trên là do hậu quả tổn thương của những neuron thứ yếu. Chúng tôi khuyến nghị mối quan hệ đó cũng chính là yếu tố gây ra quá trình tiến triển bệnh tật”, chuyên viên Moore khẳng định.
Ví dụ như bệnh động kinh thường do những mạch máu hoạt động bất thường trong khu vực não bộ, xảy ra hiện tượng cơn tai biến ngập máu. Moore lý giải hiện tượng mạch máu ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh căn cứ trên các công trình nghiên cứu của ông tại phòng thí nghiệm. Máu có thể khuếch tán do các mạch máu có những khe hở, do vậy ảnh hưởng đến hoạt động não bộ, và sự thay đổi lượng máu có thể ảnh hưởng đến hoạt động hệ thần kinh. Các neurons cũng bị tác động ảnh hưởng khi những mạch máu giãn nở ra và chảy tràn ngập.
Máu cũng tác động đến nhiệt độ của một loạt chuổi đan xen lẫn nhau của các bộ phận trên não, điều này khiến ảnh hưởng đến hoạt động của các tế bào thần kinh.
Công trình nghiên cứu trên cũng được đúc kết bởi tiến sĩ Thomas F. Peterson, thuộc Viện nghiên cứu hoạt động não bộ the Mitsui Foundation and the McGovern Institute for Brain Research at MIT.
Lưu Ly (theo Livescience -
http://www.livescience.com/health/071015-blood-think.html - Bản dịch do dịch giả Lưu Ly gửi)

12.1.08

BẮC VIỆT ĐÓN CLINTON

Trông bầy cộng sản đón Clin -tơn
Cả lũ vui mừng cười hết trơn
Chủ nghĩa Mác Lê quăng sọt rác
Bá vai Đế Quốc mặt nhơn nhơn
Anh hùng chống Mỹ giờ đây nhỉ
Cách mạng mùa thu cũng vãn tuồng"
Lăng bác" nhện giăng then cữa đóng
Đồng Đô nó húc thật vô song

Đồng Đô nó húc thật vô song
Chủ nghĩa naò hơn chủ nghĩa đồng
Xưa chửi ba đời "thằng giặc Mỹ "
Nay qùv vái lậy: "giặc thành ông "
Làm tên xing kích mòi không khá,
Đầy tớ xem ra cũng chửa xong,
Tráo trở xưa nay, nghề cộng sản ,
Dân mình tay trắng vẫn hoàn không
Trần Việt Yên

8.1.08

Hoàng Sa, Trường Sa Nhìn từ không ảnh




Kính thưa quý vị

Trên không ảnh lấy từ Google Earth, chúng ta thấy :

1- Quần đảo Trường Sa khoảng cách gần Việt Nam hơn đảo Hải Nam Trung Quốc

2- Trên quần đảo Hoàng sa , Trung Cộng đã xây dựng các cơ sở hạ tầng như sân bay, doanh trại quân đội có thể nhìn thấy rõ từ không gian

Với những bằng chứng hiển nhiên như thế mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam , còn mong đàm thoại với trung Cộng trên căn bản hữu nghị, láng giềng tốt !!!

RÕ RÀNG LÀ NGUỴ BIỆN , LẤP LIẾM CHO HÀNH ĐỘNG BÁN NƯỚC CỦA T6ẠP ĐOÀN LÃNH ĐẠO CỘNG SẢN MÀ THÔI

Một số sử liệu liên quan tới biên giới Việt Hoa

Từ Mai
Không người Việt Nam nào không bàng hoàng, đau xót trước sự việc đất nước mất ít nhất trên 700 cây số vuông miền biên giới và trên 10 ngàn cây số vuông hải phận. Quan trọng hơn nữa, những vùng đất và biển bị mất có tầm chiến lược sinh tử, có ý nghĩa lịch sử thiêng liêng đối với dân tộc, và với nhiều tài nguyên phong phú. Có cơ duyên tìm được một số sử liệu đáng lưu ý liên quan tới biên giới Việt Hoa trong khoảng hơn 200 năm qua, người viết những dòng này xin được trình bày những tài liệu ấy tới tất cả những ai quan tâm đến quyền lợi cùng tương lai đất nước.
I . Chiếc cổng “Trấn-Nam quan” của Trung Hoa
Trong Vân đài loại ngữ, được sáng tác khoảng năm 1777, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) ghi lại bài ký “Trùng tu Trấn-Nam quan” của Tuần phủ Quảng tây Lý Công Phất đời Ung chính nhà Thanh. Theo bài ký này, việc tu bổ Nam quan là việc của nhiều quan chức nhà Thanh đã chuẩn bị gỗ, đá từ trước, nhưng người thực sự dùng tiền được thưởng (1800 lạng bạc) giúp cho việc tu bổ tiến hành là Án sát Quảng tây Cam Nhữ Lai. Bài ký cho biết: “Cửa quan này từ lâu không được sửa sang, ngày càng đổ nát,” và chép lại câu nói của viên Án sát họ Cam: “Các quan thú trước nghèo cho nên không sửa sang nổi. Nay đã có món tiền thưởng này, một mình ta xin gánh việc ấy.” Việc tu bổ bắt đầu từ tháng 2 năm Ung chính thứ ba (Ất Tỵ, 1725), đến mùa Đông năm ấy mới hoàn tất. Bài ký cũng cho biết: “Cửa quan này tường cao, lầu kín; nơi khám xét, nơi đóng quân, nơi canh phòng đều đầy đủ, chỉnh tề.” Cam Nhữ Lai người tỉnh Giang tây, thi đậu Tiến sĩ, làm quan được tiếng thanh liêm; trước đã làm Tri phủ Thái bình (tỉnh Quảng tây, giáp biên giới Việt Nam) trước khi thăng Phó sứ đạo Tả giang rồi Án sát Quảng tây. Các quan chức nhà Thanh cùng tham gia vào việc tu bổ Nam quan có Tổng đốc Lưỡng Quảng Khổng Dục Tuân, Đề đốc Quảng tây Hàn Lượng Phụ, và Tổng trấn đạo Tả giang Lương Vĩnh Hi (1).
Theo nhà bác học Lê Quý Đôn, việc dùng tiền bạc, gỗ đá, và bỏ ra gần một năm để tu bổ Trấn-Nam quan là việc của nhiều quan chức Trung Hoa đời Thanh, đáng kể nhất là Án sát Cam Nhữ Lai. Ta có thể tin: chiếc cổng này của Trung Hoa. Chính vì của họ nên họ đã đặt tên là “cổng để trấn giữ phương Nam.” Người đổi tên cho Nam quan gần đây (“cổng để hòa mục với phương Nam”) cũng là một người Trung hoa khác: Mao Trạch Đông.
II . Cho tới tháng 3-1886, biên giới Việt Hoa ở đúng vị trí của Nam quan
Tuy Trấn-Nam quan của Trung Hoa, cho tới tháng 3-1886, khi các Ủy viên của chính phủ Pháp tới gặp đại diện của Trung Hoa để phân định biên giới theo sự quy định của Hiệp ước Thiên tân (1885), chiếc cổng này vẫn được coi là mốc biên giới giữa hai nước Hoa Việt.
Dưới đây là bản chụp lại một bản đồ chính thức của triều đình nhà Thanh về miền biên giới Quảng tây – Lạng sơn, được in trong Đại Thanh nhất thống chí (Da Qing yi tong zhi). Đây là một bộ sách công phu và đồ sộ, hoàn tất trong đời Càn long nhà Thanh (trị vì 1736-1795), và được in theo lệnh của chính vua Càn long năm Giáp Thân, 1764. Đại Thanh nhất thống chí gồm 500 quyển, với bản đồ từng phủ, huyện của Trung Hoa. Trong bản đồ phủ Thái bình, tỉnh Quảng tây (giáp với Việt Nam), ba quan ải được đề cập tới là Trấn-Nam quan, Thủy khẩu quan, và Bình nhi ải. Theo bộ địa dư chính thức của nhà Thanh này, biên giới Hoa Việt chạy sát ngay trước Trấn-Nam quan cũng như Thủy khẩu quan, và cắt ngang Bình nhi ải với phần của Trung hoa nhiều hơn (xin xem bản đồ 1). Trong bộ sách này, bản đồ phủ Thái bình được in ở quyển 365, các tờ 1 và 2.
Đại Thanh nhất thống chí vẫn được tàng trữ ở thư viện Bắc kinh cùng một số thư viện quan trọng của Trung Hoa. Tại Hoa Kỳ, bên cạnh thư viện Quốc hội, bộ sách cũng được giữ tại thư viện một số Đại học lớn: UC Berkeley, UCLA, Univ. of Colorado (Boulder), Univ. of Florida (Gainsville), Univ. of Michigan (Ann Arbor), Univ. of Pittsburg (Pennsylvania)...
Bản đồ kèm theo bài này được rút ra từ cuốn La Frontière Sino-Annamite (Biên giới Hoa-Việt) của Gabriel Devéria, do nhà Ernest Leroux xuất bản tại Paris năm 1886 (năm bắt đầu phân định biên giới). Bản đồ này chỉ khác bản đồ nguyên thủy của nhà Thanh ở chỗ các địa danh đã được chuyển từ chữ Hán ra phiên âm theo mẫu tự La tinh, dùng hệ thống phiên âm của người Pháp cuối thế kỷ 19. Chẳng hạn: Trấn Nam quan = Tchen nan kouan, Thủy khẩu quan = Chouei keou kouan, Bình nhi ải = Ping eurl ai.
Chính vì Trấn Nam quan được coi là ở ngay tại biên giới hai nước (từ cổng trở về bắc: Trung Hoa, về nam: Việt Nam) nên Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn mới chép: “Phía bắc cửa có Chiêu đức đài, đằng sau đài có Đình tham đường của nước Thanh, phía nam có Ngưỡng đức đài của nước ta,” và nói rõ thêm về Ngưỡng đức đài: “bên tả bên hữu đài có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ này làm nơi tạm nghỉ” (2). Hai giáo sư Trần Gia Phụng và Hà Mai Phương đều đã dựa vào Đại Nam nhất thống chí (vừa kể) và Phương đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu để nêu lên việc Đốc trấn Lạng sơn Nguyễn Trọng Đang trùng tu Ngưỡng đức đài năm Giáp Thìn (1784), nhằm năm Cảnh hưng 45 đời vua Lê Hiển tông. Xin góp thêm một nhận xét: theo văn bia do chính vị Đốc trấn họ Nguyễn viết, việc trùng tu này gần một năm mới xong (từ mùa Hạ năm Giáp Thìn đến mùa Xuân năm Ất Tỵ, 1785). Trong gần một năm ấy, nhiều toán dân phu “do bốn dịch trưởng trông nom công việc” đã tới đài “dùng gạch ngói” để sửa và xây cho được “hoành tráng, cao rộng thêm.” Nếu Ngưỡng đức đài, tại ngay phía nam của Nam quan, không thuộc địa giới nước ta thì làm sao dân phu Lạng sơn có thể hàng ngày tới thực hiện những công việc huyên náo trong một thời gian kéo dài như thế? Và nếu đài, một công trình kiến trúc tại khu vực Nam quan “nằm sâu trong lãnh thổ Trung Hoa” như tình trạng hiện nay, thì vị Đốc trấn Lạng sơn tốn nhân công, vật dụng tu bổ để làm gì?
Sang triều Nguyễn, Nam quan vẫn được coi là biên giới hai nước. Khi vâng lệnh vua Gia long cầm đầu một sứ bộ sang Trung Hoa năm Quý Dậu, 1813, thi hào Nguyễn Du đã ghi lại những nhận xét về cửa quan này như sau:
Việc cũ đời Lý, Trần xa xôi, mờ mịt khó tìm
Suốt ba trăm năm thẳng tới hiện nay
Hai nước chia đều nhau từ mặt chiếc lũy lẻ loi
Một cửa quan oai hùng trấn giữa muôn quả núi...
Nguyên văn trong Bắc hành tạp lục:

Lý Trần cựu sự yểu nan tầm
Tam bách niên lai trực đáo câm
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm... (3)
Câu “Hai nước chia đều nhau từ mặt chiếc lũy lẻ loi” cho ta thấy: “mặt chiếc lũy lẻ loi chính là nơi phân định biên giới hai nước.” Và đó là chuyện “từ ba trăm năm thẳng tới hiện nay.” Vị thi hào Chánh sứ của Việt Nam đồng ý hoàn toàn với Đại Thanh nhất thống chí của Trung Hoa. Từ đồn canh biên giới của Việt Nam thời ấy, không hề và không thể có những câu đau lòng: “Nam quan nằm sâu trong đất Trung Hoa, đứng đây không nhìn thấy được” (4).
III . Tháng 3-1886, chúng ta mất 100 thước đất ở Nam quan
Để thi hành Điều III Hiệp ước Thiên tân, ký ngày 9 tháng 6 năm 1885 giữa đại diện chính phủ Pháp là Jules Patenôtre với đại diện nhà Thanh là Li Hong-Chang (Lý Hồng Chương), Teng Tcheng-Sieou (Tăng Thành Siêu [?]) và Si Tchen, chính phủ Pháp cử một phái đoàn gồm 5 Ủy viên lấy từ 3 bộ khác nhau (bộ Ngoại giao, bộ Chiến tranh, và bộ Hải quân) tới biên giới HoaViệt gặp đại diện Trung Hoa để phân định biên giới. Phái đoàn do Tổng Lãnh sự Bourcier Saint-Chaffray thuộc Bộ Ngoại giao cầm đầu. Trong phái đoàn có sự tham dự của Bác sĩ P. Néis, một nhà thám hiểm và cũng là Bác sĩ của Hải quân. Bác sĩ Néis viết một hồi ký, cung cấp nhiều chi tiết quan trọng về chuyến đi này, đăng nhiều kỳ trên tạp chí Pháp Le Tour du Monde năm 1887 dưới nhan đề “Sur les frontières du Tonkin.” Thiên hồi ký mới được Tiến sĩ Walter E. J. Tips, một chuyên viên về Đông Nam Á dịch sang Anh ngữ, in thành sách dưới nhan đề The Sino-Vietnamese Border Demarcation, 1885-1887. Sách do White Lotus Press xuất bản tại Bangkok năm 1998, và đã được giữ trong rất nhiều thư viện Đại học ở Hoa kỳ.
Phái đoàn Pháp rời Marseille cuối tháng 9-1885, tới Hà nội ngày 1 tháng 11, nhưng mãi đến 12 tháng 1-1886 mới thực hiện được cuộc gặp gỡ đầu tiên với phái đoàn Trung Hoa tại Đồng đăng. Phái đoàn Trung Hoa do chính Teng Tcheng-Sieou, một trong những nhân vật ký Hiệp ước Thiên tân, cầm đầu.
Theo bác sĩ Néis, trong các cuộc gặp gỡ sơ bộ tại Đồng đăng các tháng 1 và 2-1886, phái đoàn Trung Hoa đưa ra những đòi hỏi về lãnh thổ cực kỳ quá đáng (“most exaggerated claims” trong bản Anh ngữ). Cuộc thảo luận bế tắc, suýt đổ vỡ hai lần. Mặt khác, song song với những đòi hỏi ấy, phái đoàn Trung Hoa tỏ ra rất hào phóng với phái đoàn Pháp trong việc khoản đãi: những bữa tiệc thịnh soạn với vây, yến, hải sản, rượu champagne với các nhãn hiệu nổi tiếng, nhiều quà tặng... Hai phái đoàn đồng ý: ngày 20 tháng 3-1886 sẽ gặp nhau để phân định biên giới ở Trấn Nam quan (bác sĩ Néis gọi là “Porte de Chine” và cho biết người Việt gọi là “cua ai”) (5).
Cũng theo bác sĩ Néis, hôm phái đoàn Pháp rời Đồng đăng lên Nam quan, trên các ngọn đồi nhìn xuống Đồng đăng suốt cho tới đường đi Thất khê, quân đội Trung Hoa xuất hiện khắp nơi, mang theo rất nhiều cờ và cắm xuống nhiều chỗ, làm như những vùng đất ấy thuộc Trung Hoa. Để tới Nam quan, phái đoàn Pháp phải đi xuyên qua các đơn vị quân đội ấy. Tới Nam quan, Trưởng phái đoàn Pháp lên tiếng phản đối việc xâm phạm lãnh thổ, yêu cầu quân Trung Hoa rút về bên kia biên giới. Thoạt đầu, các viên chức Trung Hoa làm bộ không hiểu gì hết trước lời yêu cầu của phái đoàn Pháp “acted as if they did not understand any of our demands”). Tới khi phái đoàn Pháp cho biết sẽ chỉ bắt đầu cuộc thảo luận sau khi quân đội Trung Hoa đã rút hết, các viên chức Trung Hoa mới giải thích: quân đội ấy là do các vị quan võ “tự ý đưa sang” để “đón tiếp phái đoàn Pháp một cách trọng thể” nhưng không báo cho họ (các quan văn) được biết. Tuy nhiên, họ cũng ra lệnh cho các đơn vị quân đội lui về bên kia biên giới để cuộc thương thảo được tiến hành (6).
Phái đoàn Pháp biết rằng Nam quan nằm ngay trên đường biên giới. Các tài liệu, bản đồ họ có trong tay đều cho thấy như thế. Nhưng các đại diện Trung Hoa cương quyết nhấn mạnh (“strongly insist”) rằng chiếc cổng và bức tường ngăn không được coi là biên giới. Họ muốn có “ít nhất một ít thước của khoảng đất hoang trước cổng” (“at least a few meters of fallow terrain in front of it”). Sau khi đi bộ ra trước cổng quan sát, phái đoàn Pháp đồng ý nhân nhượng: biên giới sẽ chạy theo một con suối dưới chân đồi, trước chiếc cổng “khoảng 150 thước.” Đây là nhân nhượng đầu tiên, cũng là một nhân nhượng khá rộng rãi. Theo bác sĩ Néis, sau đó phái đoàn Pháp không ngớt khoe khoang về điều này (7).
Một trí thức Việt Nam tại Pháp, ông Trương Nhân Tuấn, đã hi sinh rất nhiều thời gian và công phu vào tìm kiếm trong Văn khố Đông dương của Pháp tại Aix-en-Provence, và tìm được nhiều tài liệu liên quan đến Hiệp ước Thiên tân cùng Biên bản việc phân định cùng cắm mốc biên giới. Theo những tài liệu ông Tuấn tìm thấy, phần thứ 3 của Biên bản nhắc tới cột mốc trước Nam quan: cột mốc này được cắm trên đường từ Nam quan về Đồng đăng, cách cửa quan 100 thước (“sur le chemin de Nam Quan à Dong Dang, à 100m au S. de la porte”) (8).
Trên nhật báo Người Việt số ra ngày 5 tháng 4-2002, nhà báo Ngô Nhân Dụng đã lưu ý tới chỗ sai biệt giữa hồi ký của bác sĩ Néis và biên bản do ông Tuấn tìm thấy: cột mốc cách Nam quan “100 thước” theo biên bản và “khoảng 150 thước” theo hồi ký. Ông Dụng nêu nhận xét: biên bản cho biết khoảng cách theo đường chiếu thẳng, “đường chim bay,” trong khi hồi ký ước lượng khoảng cách theo những bước quanh co đi bộ xuống đồi. Tuy chỗ sai biệt không lớn, biên bản nhiều phần chính xác và có giá trị pháp lý hơn. Điểm quan trọng là biên giới mới chạy theo một con suối trước cửa quan. Người viết những dòng này hoàn toàn đồng ý với ông.
Tóm lại, so với các đời trước, ngày 20 tháng 3 năm 1886, biên giới Việt Nam tại Nam quan đã bị lùi lại 100 thước do sự hào hiệp của phái đoàn Pháp đối với các quan nhà Thanh, đáp ứng phần nào những khoản đãi từ phái đoàn Trung Hoa. Đây mới là nhân nhượng đầu tiên. Trong việc cắm mốc biên giới này -- mãi đến 1895 mới hoàn tất – lãnh thổ Việt Nam còn chịu nhiều mất mát đáng kể hơn thế nữa.
IV . Một số đất Việt Nam bị mất sau cuộc phân định biên giới 1886-1895
Theo nhà nghiên cứu Pháp Charles Fourniau trong bài “La frontière sino-vietnamienne et le face à face franco-chinois à l’époque de la conquête du Tonkin” in trong cuốn Les Frontières du Vietnam (Paris : Harmattan, 1989), trong mấy năm phân định biên giới, phái đoàn Pháp có lý do để nhân nhượng phái đoàn Trung Hoa trong các thương thảo liên quan đến lãnh thổ Việt Nam. Trong một công điện gửi từ Bắc kinh về Pháp ngày 10 tháng 10-1886, Đô đốc Rieuner cho biết Lý Hồng Chương đã nói thẳng với ông: “Nước Pháp đã được rất nhiều khi lấy được Bắc kỳ, chư hầu của Trung quốc từ 600 năm nay. Việc ấy lại qua sự trung gian của tôi (Lời chú của người viết: Lý Hồng Chương muốn nói ông ta đã điều đình và ký Hiệp ước Thiên tân, bản hiệp ước công nhận quyền “bảo hộ” của Pháp trên đất nước Việt Nam) . Điều này đã gây cho tôi (vẫn lời Lý Hồng Chương) nhiều phiền muộn. Theo tôi, cần một sự đền bù dưới hình thức một nhân nhượng nhỏ về lãnh thổ tại biên giới An-nam” (nguyên văn: “Une compensation sous la forme d’une petite cession de territoire sur la frontière de l’Annam me semble nécessaire”) (9).
Trong thời gian ấy, Pháp cũng đang muốn ký với Trung Hoa một hiệp ước thương mại để được quyền buôn bán ở Hoa nam cùng mở các tòa Lãnh sự ở Quảng tây và Vân nam. Mỗi khi có mâu thuẫn đến độ bế tắc khiến các phái đoàn cắm mốc biên giới phải hỏi ý chính phủ, chỉ thị từ phía Pháp thường là: “nhân nhượng” (10). Chính vì thế, theo một chính sách nhiều nhà nghiên cứu gọi là “politique des pourboires” (“chính trị tiền trà nước”), trong cuộc phân định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh này, Việt Nam đã bị mất nhiều lãnh thổ đáng kể. Để làm thí dụ, xin đơn cử hai vùng đất quan trọng hơn cả: một số làng ở Đông bắc Móng cái và vùng mỏ đồng Tụ long.
Một số làng ở Đông bắc Móng cái:
Theo bác sĩ Néis, sát theo bờ biển phía Đông bắc Móng cái có một số làng Việt Nam. Cư dân gồm người Việt cùng nhiều sắc dân thiểu số chứ không có người Hoa. Những làng này ngăn cách với vùng đất Trung Hoa bao quanh bằng mấy rặng núi hình vòng cung của dãy Thập vạn đại sơn (Shiwan dashan) . Danh hiệu một số làng là danh hiệu Việt Nam: Trung sơn, Song phong, Mai công... Một số làng sống bằng nghề đánh cá lấy tên Vạn Công, Vạn Mi, Vạn Thọ, Vạn Tray... như nhiều làng đánh cá Việt Nam khác. Các làng này từ trước vẫn sống dưới quyền quản trị của triều đình Việt Nam.
Có một điều bất thường là các làng này không tiếp giáp với lãnh thổ chính của Việt Nam. Một dải đất chiều ngang 10 cây số thuộc tỉnh Quảng đông của Trung Hoa chắn ngang ở giữa. Muốn đi từ các làng này về lãnh thổ chính của Việt Nam (chẳng hạn Móng cái) phải đi khoảng 10 cây số qua đất Trung Hoa, hoặc phải dùng thuyền. Ngay khi mới tới Móng cái và biết được điều ấy, bác sĩ Néis đã tiên liệu sẽ gặp rắc rối trong việc phân định biên giới. Ông vẽ một bản đồ (xin xem bản đồ 2) và gọi khu vực này là “enclave annamite” (vùng Việt Nam bị vây trong lãnh thổ Trung Hoa) (11).
Các làng này quây quần quanh một vũng biển nhỏ có tên là vũng Vạn Xuân. Một mỏm đất nhọn chạy nhô ra biển, bọc phía ngoài chặn sóng gió, có tên là mũi Bạch long (phía Trung Hoa gọi là Pak-lung). Bác sĩ Néis được cho biết: Tổng đốc Lưỡng Quảng Zhang Zhi-Dong (Trương Chi Động), một đối thủ chính trị đáng kể của Lý Hồng Chương, rất muốn đoạt vũng biển và mũi đất này.
Việc tranh chấp xảy đến đúng như dự đoán. Theo những tìm tòi của bác sĩ Néis, tất cả những tiêu chuẩn xác định chủ quyền cần thiết, từ phong tục truyền thống, tập quán, văn kiện sổ sách, cho đến tài liệu địa dư chính thức của Trung Hoa, đều cho thấy vùng đất này thuộc miền Bắc Việt Nam (“Traditions, customs, records, and even official Chinese geography indicate this country as being part of Tonkin”). Trong một điện văn do phái đoàn phân định biên giới gửi cho đại diện chính phủ Pháp có câu: “Tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau, các ủy viên của nước Pháp đã thu thập được một hồ sơ thật lớn về thẩm quyền của đế quốc An nam trên vùng đất này” (“Les commissaires francais avaient accumulé une grosse documentation sur les droits de l’empire d’Annam sur cette région, en consultant des sources nombreuses et variées”) (12). Nhưng phái đoàn Trung Hoa nhất định không nhân nhượng. Họ được lệnh một cách chính thức từ Trương Chi Động: không được nhìn nhận vùng đất này là của Bắc kỳ (“They had formal order from the viceroy of Canton not to recognize this territory as Tonkinese”) (13) .
Phái đoàn Pháp không thể làm gì khác hơn là viết một tờ trình kèm theo bản đồ, gửi về xin ý kiến chính phủ. Sau sáu tháng chờ đợi (từ tháng 12-1886 đến tháng 6-1887), bác sĩ Néis được biết: vị Đặc ủy đại diện chính phủ Pháp, người đang điều đình một Hiệp ước thương mại quan trọng ở Bắc kinh (Ernest Constans) đã quyết định nhường các làng ấy cùng mũi đất Bạch long cho Trung Hoa. Trong “Thỏa ước phân định biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ” (“Convention relative à la délimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin”) do Ernest Constans, Đặc ủy viên Cộng hòa Pháp, ký với đại diện Trung Hoa tại Bắc kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887, vùng đất trên được nhắc tới như sau: “Những điểm tranh chấp ở Đông và Đông bắc Móng cái, phía bên kia biên giới theo sự ấn định của Ủy ban phân giới, được phân phối cho Trung Hoa” (“Il est entendu que les points contestés qui sont situés à l’est et au nord-est de Monkai, au-delà de la frontière telle qu’elle a été fixée par la Commission de délimitation, sont attribués à la Chine”). Bác sĩ Néis kết thúc đoạn hồi ký về chuyện này một cách ngậm ngùi: “dân chúng trở về nhà, từ nay trở đi là người Tàu” (14).
Việc mất các làng phía Đông bắc Móng cái là một thiệt hại kép đối với Việt Nam: ảnh hưởng đến ranh giới hải phận. Trong buổi thuyết trình về biên giới Việt Hoa tại Viện Việt Học ngày 7 tháng 4 năm 2002, giáo sư Nguyễn Văn Canh cho biết: quyết định nhường vùng đất phía Đông bắc Móng cái cho Trung Hoa của Ernest Constans đã ảnh hưởng tới việc phân chia hải phận vịnh Bắc Việt một cách thiệt hại cho Việt Nam. Người viết những dòng này hoàn toàn đồng ý với giáo sư. Vì vùng đất trên bị mất, đường ranh chia hải phận vịnh Bắc Việt (“đường ranh Brévié”) chỉ được tính từ mỏm cực đông của đảo Trà cổ. Mỏm này cách ranh giới phía đông của vùng đất bị mất 27 cây số về phía tây. Ranh giới hải phận Việt Nam trong vịnh Bắc Việt do đó cũng bị đẩy lùi về tây, hẹp hơn 27 cây số.
Vùng mỏ đồng Tụ long:
Theo Đại Nam nhất thống chí và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, núi Tụ long ở xã Tụ long, châu Vị xuyên; sau khi châu này phân đôi, được cắt cho huyện Vĩnh tuy, cách huyện lỵ 200 dặm về phía đông bắc. Trong núi có mỏ đá nam châm và đồng đỏ, cũng có chỗ lẫn ngân sa. Trong đời Lê trung hưng vùng này đã mất vào tay Trung Hoa đúng 40 năm, từ năm Mậu Thìn 1688 đến năm Mậu Thân 1728. Sang đời Nguyễn, mỏ đồng Tụ long vẫn được khai thác. Triều đình cho dựng bảo Tụ long, một loại đồn binh, để bảo vệ biên giới và vùng mỏ này. Nói về nguồn lợi của mỏ đồng Tụ long thời trước, ca dao có câu:
Đồng Tụ long, thiếc Sông Ngâu
Tiền rừng bạc bể kể đâu sánh bằng
.
Tổng Tụ long gồm 9 xã (Tụ nhân, Tụ nghĩa, Tụ hoa, Tụ mỹ, Tụ thanh, Tụ long...). Theo Charles Fourniau, tổng này hoàn toàn thuộc lãnh thổ Việt Nam (“Le canton de Tulong, tout entier territoire de l’Empire annamite...”) (15). Sau mấy đợt nhân nhượng của người Pháp từ 1887 đến 1897, 3 phần 4 tổng Tụ long gồm cả mỏ đồng, với một diện tích khoảng 750 cây số vuông, đã bị nhường cho Trung Hoa, sáp nhập vào phủ Khai hóa, tỉnh Vân nam. Nguyệt san Revue Indochinoise, số 5 và 6, xuất bản tại Hà nội các tháng 5 & 6-1924, có đăng bài tường thuật của Trung tá Bonifacy, “Le canton de Tu-long et la frontière Sino-Tonkinoise,” kèm theo một bản đồ ghi từng giai đoạn của việc nhường đất này. Revue Indochinoise hiện rất khó tìm. Rất may, tấm bản đồ ấy cùng các chi tiết về việc nhường đất đã được in lại trong cuốn Sử liệu về biên giới ta và Tàu từ đời nhà Lý cho tới đầu thời Pháp thuộc của Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng, do Mai Hiên xuất bản tại Campbell, California năm 1999. Độc giả muốn tìm hiểu thêm về tổng Tụ long cũng như về việc mất các vùng đất khác, xin tham khảo tài liệu kể trên.
Một kỹ thuật đặc biệt
Bên cạnh việc khai thác tối đa lòng ham muốn quyền lợi kinh tế của người Pháp và việc dùng các hình thức khoản đãi để mua chuộc hầu được lợi trong việc phân định biên giới các năm 1886-1895, phía Trung Hoa còn áp dụng một thủ đoạn vô cùng đặc biệt: khủng bố và hạ sát. Theo Trung tá Bonifacy, sau khi nhiều người Pháp trong Ủy ban phân định biên giới bị tấn công và thiệt mạng, phần lớn biên giới Hoa Việt chỉ được ấn định trên bản đồ. Bác sĩ Néis cho biết trong một chuyến đi quan sát biên giới giữa Lào kay – Vân nam vào tháng 8 năm 1886, hai lần toán của ông bị phục kích. Hai sĩ quan cầm đầu toán bảo vệ, Trung úy Geil và Thiếu úy Henry, bị bắn chết, nhiều phu khuân vác bị thương. Ủy viên tiền nhiệm của bác sĩ Néis trong việc phân định biên giới tại Móng cái là Phó lãnh sự J. B. S. Haitce cùng một số nhân viên bị hàng trăm người Trung Hoa tấn công, và bị thảm sát (chặt đầu) ngày 27 tháng 11 năm 1886.
Hai vụ tấn công ở biên giới Lào kay – Vân nam do các toán thổ phỉ thực hiện, nhưng nhiều dấu hiệu cho thấy phái đoàn Trung Hoa đã dàn xếp, hay ít nhất biết trước cuộc tấn công. Ủy viên Trung Hoa từ chối không chịu cùng đi với phái đoàn Pháp trong chuyến công tác này. Khi phái đoàn Pháp đề nghị ít nhất cho một nhân viên địa hình Trung Hoa cùng đi, nhân viên này dùng một thuyền riêng chứ không đi chung, và lánh đi đâu mất buổi chiều trước cuộc phục kích. Trong vụ tấn công ở Móng cái, toán người Hoa từ bên kia biên giới kéo sang, một số mặc quân phục. Bác sĩ Néis cho biết: tuy không trưng được bằng cớ, những tin tức tình báo ông nhận được sau đó cho biết các vụ tấn công này do chính Tổng đốc Trương Chi Động chủ mưu với sự tiếp tay của Trưởng phái đoàn Trung Hoa Teng Tcheng-Sieou (Tăng Thành Siêu?) . Đảm nhiệm việc thi hành là một viên chức Trung Hoa họ Vương (Wang) ở Đông Hưng (“Tong Hing” theo lối phiên âm của Pháp thời ấy), thuộc cấp của Tổng đốc họ Trương. Nhà nghiên cứu Charles Fourniau (một người Pháp) hạ bút: “Theo người Pháp, Trương Chi Động có trách nhiệm trong vụ sát nhân này” (16).
V . Một kinh nghiệm mất đất và đòi đất của người trước
Như đã trình bày trên, vùng mỏ đồng Tụ long từng bị mất cho Trung Hoa trong đời Lê trung hưng, 40 năm sau mới đòi lại được. Dưới đây xin tóm lược ít kinh nghiệm của người trước trong việc mất đất cũng như đòi đất này.
Theo Cương mục và Đại Nam nhất thống chí, đầu đời Lê trung hưng, Gia quốc công Vũ Văn Mật có công đánh nhà Mạc, được phong An tây vương, và được đời đời giữ đất Tuyên quang (địa giới trấn Tuyên quang thời ấy rất rộng, tiếp giáp với Trung Hoa, gồm cả khu vực tỉnh Hà giang hiện nay). Con ông là Thái phó Nhân quốc công Vũ Công Kỷ và cháu là Thái bảo Hòa quốc công Vũ Đức Cung (theo Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục: Vũ Công Ứng) tuy được quyền tự trị, vẫn tòng phục triều đình. Đến đời chắt là Thiếu phó Tông quận công Vũ Công Đắc ỷ thế xa xôi hiểm trở, muốn tự lập xưng vương. Sau khi Công Đắc bị bộ thuộc sát hại, triều đình phong cho con Công Đắc là Vũ Công Tuấn tước Khoan quận công nhưng giữ ở kinh đô, rồi sai quan đi trấn giữ Tuyên quang (17).
Không rõ do các quan triều đình cử đi không được lòng dân địa phương, phần đông là người thiểu số, hay do những bất mãn vì chuyện bị giam lỏng không được về lãnh địa, ba năm sau Vũ Công Tuấn bỏ trốn về Tuyên quang làm phản. Lúc ấy là năm Nhâm Tý, 1672, đời vua Lê Gia tông.
Mười sáu năm sau, bị triều đình dồn đuổi, Vũ Công Tuấn chạy sang Vân nam, đem ba châu thuộc lãnh địa xin sáp nhập vào Vân nam để mong được che chở. Quan địa phương nhà Thanh bèn chiếm luôn ba châu ấy, đặt chức tuần ty để thu thuế. Đó là các châu Vị xuyên, Bảo lạc thuộc Tuyên quang, và châu Thủy vĩ thuộc Hưng hóa. Mỏ đồng Tụ long thuộc châu Vị xuyên. Trấn thủ Tuyên quang - Hưng hóa là Lê Huyến gửi thư sang phân biện nhưng viên chức nhà Thanh không chịu trả. Bấy giờ là năm Mậu Thìn, 1688, đời vua Lê Hi tông, nhằm năm thứ 27 niên hiệu Khang hi nhà Thanh (18).
Trong những dịp sang tuế cống sau đó, sứ thần Việt Nam nhiều lần trình bày vấn đề ba châu này. Nhưng mỗi khi Thanh đình định cho điều tra, các quan địa phương nhà Thanh lại tâu rằng các châu ấy “thuộc Trung quốc từ lâu,” và đổ cho Việt Nam đã “lợi dụng tình trạng hỗn loạn sau khi nhà Minh mất để mưu toan bành trướng lãnh thổ.” Mãi đến năm Bính Ngọ, 1726, theo đề nghị của Tổng đốc Quảng tây Khổng Dục Tuân, triều đình nhà Thanh mới đồng ý trả lại một phần đất đã mất nhưng vẫn không trả khu vực mỏ đồng (19).
Hai năm sau, Mậu Thân 1728, nhà Thanh trả thêm đất cùng khu vực mỏ đồng. Có lẽ do những tế nhị trong việc bang giao thời trước, chính sử của ta chép rất sơ lược về vấn đề này. Cương mục chỉ viết là khi vua Ung chính nhà Thanh theo lời cáo buộc man trá của quan phủ Khai hóa (tỉnh Vân nam), hạ sắc văn bắt ta phải “trả những đất đã chiếm,” viên thổ mục giữ quan ải là Hoàng Văn Phác “dùng lời lẽ kháng cự, nhất thiết không chịu tiếp nhận sắc văn.” Tình trạng căng thẳng kéo dài. Tổng đốc Vân nam – Quý châu là Ngạc Nhĩ Thái một mặt đưa văn thư sang Quảng tây, yêu cầu chia địa điểm phòng giữ, một mặt xin triều đình điều động binh mã ba tỉnh để đối phó. Vua Thanh phải sai một Tả đô ngự sử và một Nội các học sĩ tới biên giới để “xem xét sự động tĩnh của nước ta.” Cương mục cũng cho biết: “lúc ấy biên giới phương bắc cảnh giới nghiêm ngặt.” Hai viên chức của nhà Thanh sắp sửa ra đi thì Thanh đình nhận được quốc thư từ Đại Việt đưa sang. Theo Cương mục, quốc thư trình bày “lòng thành thờ nước lớn” khiến vua Thanh Ung chính rất đẹp lòng, lập tức sai quan viết sắc văn trả lại cả vùng Tụ long (20).
Ta có quyền tin Cương mục chép theo lối “ý tại ngôn ngoại,” tránh không nhắc đến một số điểm tế nhị, chứ sự thật không đơn giản như thế. Việc viên thổ mục giữ quan ải một nước nhỏ “dùng lời lẽ kháng cự,” nhất quyết không chịu tiếp nhận sắc văn của Thiên tử nhà Thanh là một hành động quá vượt mức bình thường. Gây nên những chấn động tới độ Tổng đốc hai tỉnh lớn của Trung Hoa phải xin triều đình “điều động binh mã ba tỉnh” để đối phó, và “biên giới phương bắc cảnh giới nghiêm ngặt,” ta không thấy viên thổ mục bị triều đình Đại Việt khiển trách. Rốt cục những chấn động ấy đưa tới việc vua Thanh quyết định trả đất sau khi đọc xong một bức thư, một việc dằng dai từ mấy chục năm nhà Thanh chưa chịu thi hành. Nhiều phần viên thổ mục không hành động tự ý, mà đã đảm nhiệm thành công và xuất sắc một vai trò được điều hợp từ cấp cao hơn.
Nghiên cứu sâu thêm về bang giao Hoa Việt thời ấy và đối chiếu với sử Trung hoa, nhà sử học Philippe Langlet, nguyên giáo sư Đại học Văn khoa Sàigòn, cho biết: Bốn năm trước đó (1724), Việt Nam đã thực hiện một cuộc biểu dương binh lực (“démonstration militaire”), đánh lui đạo quân do Tổng đốc Vân nam – Quý châu cử đến để khai thác mỏ đồng. Trong thời gian này, tù trưởng các bộ lạc thiểu số ủng hộ triều đình Việt Nam, trong khi quân đội nhà Thanh đang gặp khó khăn ở Trung Á. Đang cần tập trung một binh lực đáng kể tại Tân cương, vua Ung chính không muốn có thêm một cuộc chiến ở biên giới phía Nam. Điều khám phá này được trình bày trong bài “La frontière sino-vietnamienne du XVIIIe au XIXe siècle”, in trong Les Frontières du Vietnam (Paris : Harmattan, 1989) (21).
Dù sao đi nữa, chuyện trả đất đã thực sự xảy ra. Vua Ung chính gửi sang một văn thư đầy “khẩu khí Thiên triều”: “Trẫm thống trị thiên hạ. Phàm những nước đã liệt vào phiên phong, thì dầu một thước đất không chỗ nào không phải đất đai do trẫm chủ tể, can chi phải so đo 40 dặm đất nhỏ bé ấy làm gì?... 40 dặm đất ấy nếu thuộc vào Vân nam thì là nội địa của trẫm, nếu thuộc vào An nam thì vẫn là ngoại phiên của trẫm, không có một chút gì phân biệt cả. Vậy chuẩn đem đất ấy ban thưởng cho quốc vương được đời đời giữ lấy.” (22) Đúng như câu ngạn ngữ “bắt không được, tha làm phúc.” Thiên tử đại lượng, đã “ban thưởng” cho một quốc vương có lòng thành kính. Điểm đáng ghi nhận là thiên tử “thưởng” một cách vĩnh viễn, được “giữ đời đời.” Chính sử không ghi lại bức thư đã đưa vua Ung chính tới quyết định trả đất, và cũng không cho biết tác giả thư ấy là ai. Ta có quyền tin: thư này không phải chỉ nói chuyện “lòng thành thờ nước lớn.” Vừa mềm mỏng vừa cương quyết, tác giả bức thư đã thành công một cách thật xuất sắc, không khác Ngô Thì Nhậm trong bức thư làm hòa với nhà Thanh 61 năm sau (Kỷ Dậu, 1789).
Chuyện trả đất chưa chấm dứt. Theo Cương mục, khi Tả Thị lang bộ Binh Nguyễn Huy Nhuận và Tế tửu Quốc tử giám Nguyễn Công Thái (vị quan đứng đầu Quốc tử giám, cơ sở giáo dục cao cấp nhất thời đó) lên nhận đất với đồng thuận từ triều đình nhà Thanh là biên giới ở sông Đỗ chú, thổ quan phủ Khai hóa muốn ăn chặn một số đất ở Bảo sơn thuộc tổng Tụ long, nên đã chỉ một con sông khác (ở phía Nam sông thật) nói gian là sông Đỗ chú. Tế tửu Nguyễn Công Thái phải xông pha lam chướng, vượt những chỗ hiểm trở để tìm ra sông Đỗ chú thật, rồi cùng quan nhà Thanh tranh biện và dựng mốc biên giới. Bia của Bắc quốc ở bờ phía Bắc, bia của Nam quốc ở bờ Nam. Bia bờ Nam được khắc như sau: “Giới mốc châu Vị xuyên, trấn Tuyên quang, nước An nam, lấy sông Đỗ chú làm căn cứ” (23). Năm ấy, Mậu Thân 1728, là năm Bảo thái thứ 9 đời vua Lê Dụ tông, ngoài Bắc dưới quyền chúa An đô vương Trịnh Cương, sử Trung Hoa nhằm năm Ung chính thứ 6 nhà Thanh. Đề cập đến chuyện này, Đại Nam quốc sử diễn ca chép như sau:
Đem thư biện với nhà Thanh
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành về ta
Lập bia bên Đỗ chú hà
Giới cương từ đó mới là phân minh (24).

Tình trạng phân minh ấy được tiếp tục qua triều Nguyễn. Theo Đại Nam nhất thống chí, năm Minh mạng 13 (Nhâm Thìn, 1832), triều đình còn cử quan tới biên giới trùng tu nhà bia bên bờ sông Đỗ chú. Biên soạn trong khoảng các năm 1864-1875, Đại Nam nhất thống chí vẫn đề cập đến biên giới này (25). Việt Nam mất chủ quyền do Hòa ước Giáp Thân, 1884. Ba năm sau, vùng đất này bị nhường cho Trung Hoa do Thỏa ước Bắc kinh ngày 26 tháng 6-1887 như đã nói trên. Bia và nhà bia chắc đều không còn.
VI . Một vài nhận xét
1) Các viên chức Trung Hoa, từ các quan ở Vân nam thời Khang hi, Ung chính, qua Lý Hồng Chương, Trương Chi Động cuối thế kỷ 19, tới các viên chức cao cấp của Đảng Cộng sản hiện nay, nói chung vẫn có một điểm giống nhau. Nếu thấy có cơ hội lấn được chút đất nào ở biên giới nước ta, họ đều không bỏ lỡ. Chỉ trừ một giai đoạn tương đối ngắn là giai đoạn Pháp thuộc, lịch sử Việt Nam chủ yếu là một chuỗi những cố gắng liên tục của dân tộc ta trong việc đối phó với ông láng giềng khổng lồ phương Bắc.
2) Trong việc đối phó với những tham vọng đất đai của Trung Hoa, ta phải đương đầu không phải chỉ với chính quyền trung ương của họ, mà còn cả với các thế lực địa phương. Chuyện Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Chi Động, các quan nhà Thanh ở Vân nam, và viên thổ quan chỉ sông Đỗ chú giả ở Khai hóa... là những thí dụ điển hình.
3) Để bảo vệ đất đai của tổ tiên hầu truyền lại cho hậu thế, tiền nhân ta đã phải tranh đấu rất gian nan. Việc Tế tửu Nguyễn Công Thái, một nhà giáo dục, một vị quan văn, quyết dấn thân vào những chỗ hiểm trở, xông pha lam chướng, không quản những nguy hiểm có thể xảy ra cho chính bản thân để tìm ra sông Đỗ chú thật, là một tấm gương đáng ghi nhớ.
4) Để bảo vệ đất đai vùng biên giới, sự ủng hộ của dân địa phương – nhất là các sắc tộc thiểu số – vô cùng cần thiết. Năm 1688, ba châu Vị xuyên, Bảo lạc, Thủy vĩ bị mất do sự vụng về của triều đình đối với địa phương. Theo Cương mục, sau khi quan nhà Thanh đoạt mất ba châu này, Trấn thủ Lê Huyến tìm cách khuyến dụ cư dân tại địa phương theo triều đình, nhưng không thành công. Năm 1728, một trong những lý do khiến nhà Thanh phải nhân nhượng là lãnh tụ các sắc tộc thiểu số đứng về phía triều đình Đại Việt.
5) Những người cầm đầu nước Pháp cuối thế kỷ 19 đem binh lực tới công phá Đà nẵng, chiếm Gia định, đoạt Hà nội, uy hiếp Huế ..., để đòi quyền “bảo hộ” Việt Nam. Một trong những hành động đầu tiên của họ sau khi lấy được quyền ấy là cắt nhiều vùng đất của Việt Nam cho Trung Hoa để đổi lấy quyền lợi kinh tế. Đó là một hành động cực kỳ sai trái. Cũng may, Pháp là một xã hội dân chủ với truyền thống trọng sự thật và lẽ phải. Nhiều trí thức Pháp đã đem những chuyện ấy viết lại một cách trung thực để chúng ta biết rõ quá khứ và quyền lợi dân tộc. Chúng ta ghi nhận những nét đẹp trong truyền thống dân chủ của nước Pháp và cám ơn các nhà trí thức ấy.
6) Đảng Cộng sản Việt Nam giải thích: phải điều đình lại về lãnh hải và biên giới vì Hiệp ước Thiên tân là do thực dân (Pháp) ký với phong kiến (nhà Thanh). Câu nói thoạt nghe có vẻ hữu lý. Nhưng nếu đúng như thế thì phải chữa lại những sai trái, bất công trong quá khứ. Như trên đã thấy, trong việc phân định biên giới những năm 1886-1895, Việt Nam bị thiệt và đã mất rất nhiều đất. Nếu điều đình lại thì cần điều chỉnh những mất mát bất công ấy. Nay không chữa được một chút thiệt hại nào của quá khứ mà còn mất thêm. Như thế thì điều đình và ký để làm gì?
Người viết những dòng này góp tiếng nói với toàn thể quốc dân trong và ngoài nước, yêu cầu những người cầm đầu Đảng Cộng sản Việt Nam nghĩ đến trách nhiệm trước tiền nhân và hậu thế mà công bố những hiệp ước đã lỡ ký với Trung Hoa. Mối lo của đất nước là mối lo chung. Đáng lẽ nên mừng rỡ khi thấy có những trí thức lỗi lạc và tâm huyết như Trần Khuê, Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang... (những vị Nguyễn Công Thái thời nay) chung lo trước những khó khăn của đất nước, lại tìm cách đàn áp, giam hãm họ, những người cầm đầu Đảng Cộng sản chỉ tự làm mình cô lập và bất lực thêm. Không đủ khả năng đối phó trước những tham vọng càng ngày càng phức tạp của người ngoài, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ mỗi ngày một thất bại, sa lầy thêm, và thêm nặng tội trước lịch sử.
Mấy lời nói thêm của người viết:
1) Khi đưa ra một dẫn chứng cho thấy chiếc cổng “Trấn Nam quan” của Trung Hoa, người viết những dòng này tuyệt không có ý phủ nhận quan niệm “đất nước chúng ta từ ải Nam quan đến mũi Cà mâu.” Quan niệm ấy chính xác: vùng “ải” Nam quan thuộc lãnh thổ nước ta.
Theo tất cả các tự điển, “ải” có nghĩa là “chỗ đất hẹp, hiểm trở, dễ phòng thủ” (tương đương với “défilé” trong tiếng Pháp hoặc “defile,” “narrow valley or mountain pass” trong tiếng Anh). Theo chữ Hán, “ải” được viết với bộ “phụ” (núi đất, gò đống), một bộ gồm những chữ liên quan tới hình thế thiên nhiên của đất chứ không nhất thiết phải có công trình kiến trúc nhân tạo. “Ải Nam quan” là vùng đất hẹp, hiểm trở, dễ phòng thủ của Việt Nam, tiếp cận chiếc cổng Trấn Nam quan của Trung Hoa. Năm 1886, tuy người Pháp có nhường cho Trung Hoa 100 thước đất trước cổng, nhưng vùng đất hiểm trở ở phía nam Trấn Nam quan dài hơn thế rất nhiều. Việc mất trọn vùng này tới độ “đứng ở đồn canh biên giới, không còn trông thấy Nam quan đâu nữa” như hiện nay là trách nhiệm trước lịch sử của những người cầm đầu đảng Cộng sản. Ngày 19 tháng 4-2002 vừa qua, một trí thức am tường Hán tự là ông Nông Bản Nhân đã lên tiếng qua một điện thư gửi tới nhiều nhóm trao đổi ý kiến tại quốc ngoại về vấn đề này. Người viết những dòng này hoàn toàn đồng ý với ông.
2) Trong thời Pháp thuộc, tuy biên giới trên lý thuyết cách Nam quan 100 thước,
biên giới trên thực tế vẫn ngay tại Nam quan. Khoảng cách 100 thước không lớn. Liên hệ giữa Pháp với Trung Hoa trước 1945 không xấu nên người Pháp và người Việt bên này biên giới vẫn có thể tới sát Nam quan. Nhiều vị cao niên, nhất là các vị cư ngụ quanh khu vực Lạng sơn, Đồng đăng đã cho biết điều này.
Ở miền Bắc trước 1979, trước khi những thế lực “vừa là đồng chí, vừa là anh em” lăn xả vào đánh giết nhau, dân ta vẫn có thể tới sát Nam quan. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cho biết: khoảng 1977, sau khi được trả tự do lần thứ nhất, chính ông đã có dịp cùng nhiều người khác đến cạnh chiếc cổng. Tình trạng dân Việt bên này biên giới không còn có thể tới Nam quan chỉ mới xảy ra gần đây, do tội của những người cầm đầu đảng Cộng sản.
Chú thích
1. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, Quyển 3: Khu vũ loại. Phạm Vũ & Lê Hiền dịch và
chú giải (Sàigòn : Miền Nam, 1973), trang 160-162.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí : tỉnh Lạng sơn.
Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính
(Huế : NXB Thuận Hóa, 1997), trang 384-385.
3. Nguyễn Du, “Trấn Nam quan,” trong Nguyễn Du toàn tập. Tập I: Thơ chữ Hán,
Mai Quốc Liên phiên âm, dịch nghĩa với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Tuân...
(Hà nội : NXB Văn Học, 1996), trang 295.
4. Lời công an biên phòng nói với những người muốn đến thăm Nam quan năm 2001.
Dẫn từ nhiều tài liệu khác nhau, trong đó có: Trần Gia Phụng, Ải Nam quan.
(Toronto, Ont., Canada : Non Nước, 2002), trang 30.
5. P. Néis, Sur les Frontières du Tonkin, Walter E. J. Trips dịch sang Anh ngữ, The
Sino-Vietnamese Border Demarcation, 1885-1887.
(Bangkok : White Lotus , 1998), trang 16-18.
6. P. Néis, Sách đã dẫn, trang 37-38.
7. P. Néis, Sách đã dẫn, trang 38.
8. Trương Nhân Tuấn, Tài liệu nhận được qua điện thư, ngày 10 tháng 5-2002.
9. Charles Fourniau, “La frontière sino-vietnamienne et le face en face franco-
chinois à l’époque de la conquête du Tonkin”, trong Les Frontières du Vietnam
(Paris : Harmattan, 1989), trang 90.
10. Charles Fourniau, Tài liệu đã dẫn, trang 211. Xem thêm P. Neis, Sách đã dẫn,
trang 211.
11. P. Néis, Sách đã dẫn, trang 142, 203.
12. P. Néis, Sách đã dẫn, trang 208. Xem thêm Fourniau, Tài liệu đã dẫn, trang 92.
13. P. Néis, Sách đã dẫn, trang 208-209.
14. “Convention relative à la délimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin,
signée à Pékin le 26 juin 1887,” trong France, Code no. 95886, Recueuil des
Traités conclus par la France en Extrême-Orient, in lại trong Trần Gia Phụng,
Sách đã dẫn, trang 59-61. Xem thêm P. Néis, Sách đã dẫn, trang 211-212.
15. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (đã dẫn), Tập 4, trang 345.
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên, Quyển 37.
(Huế : NXB Thuận Hóa, 1998), trang 809.
Xem thêm Fourniau, Tài liệu đã dẫn, trang 92.
16. Bonifacy, “Le canton de Tu-long et la frontière Sino-Tonkinoise” trong Revue
Indochinoise, số 5 & 6 (Mai – Juin 1924), tóm lược trong Hà Mai Phương & Chu
Thu Hằng, Sử liệu về biên giới ta và Tàu từ đời nhà Lý cho tới đầu đời Pháp thuộc
(Campbell, California : Mai Hiên, 1999), trang 19. Xem thêm Néis, Sách đã dẫn,
trang 113-129, 157-170, 185. Xem thêm Fourniau, Tài liệu đã dẫn, trang 91.
17. Cương mục (đã dẫn), trang 731-732.
Đại Nam nhất thống chí (đã dẫn), trang 360-361.
18. Cương mục (đã dẫn), trang 749.
19. Cương mục (đã dẫn), trang 803.
20. Cương mục (đã dẫn), trang 808-809.
21. Philippe Langlet, “La frontière sino-vietnamienne du XVIIIe au XIXe siècle” trong Les Frontières du Vietnam (đã dẫn), trang 72,
22. Cương mục (đã dẫn), trang 809.
23. Cương mục (đã dẫn), trang 809-810.
24. Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca, Hoàng Xuân Hãn chú giải (Sàigòn : Trường Thi, 1956), trang 194.
25. Đại Nam nhất thống chí (đã dẫn), Tập 4, trang 353.

4.1.08

Thơ rẻ hơn bèo


Vớ vẩn người thơ, tớ cũng thơ
Cũng vần cũng điệu cũng lơ mơ
Ghép vần, vần chẳng ra câu cú
Gieo điệu, điệu càng thấy ngẩn ngơ
Bẩy chữ, gọ̀ lưng chừng thấm mệt
Tám câu, chống gối vẫn ầu ơ
Người xem cười vứt ngay thùng rác*
Thơ rẻ hơn bèo, thơ hỡi thơ
* Người Viết gởi đi chẳng thấy hồi âm
Trần Việt Yên

TỪ GƯƠNG ANH HÙNG CỦA HÀNG GIÁO PHẨM THẾ GIỚI


SUY NGHĨ VỀ THÁI ĐỘ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

1- Gương anh hùng của hàng giáo phẩm trên Thế Giới

Một bản tin được loan tải trên website VietCatholicnews ngày 15 tháng 8 năm 2002 có nội dung như sau :
“ Đức Hồng Y Pedro Rubanio Saenz huộc giáo phận Bogota, Chủ Tịch Hội đồng Giám Mục Colombia đã đồng ý đi vào vùng do du kích Cộng Sản kiểm soát để thương thuyết với quân du kích các điều kiện trả tự do cho 12 dân biểu quốc hội đang bị quân du kích bắt làm con tin”.
Tổng thống Colombia, ông Alvaro Uribe Velez đã thỉnh cầu ĐHY gánh vác nhiệm vụ khó khăn này. Được biết, 12 dân biểu quốc hội đã bị bắt hồi tháng 6 tại Cali (nơi Đức Tổng Giám Mục Isalas Duarte Cancino đã bị lực lượng này giết)
Lực lượng phiến quân cộng sản FARC đã được thành lập năm 1964 và hiện có hơn 15,000 thành viên. Cuộc nội chiến từ 36 năm nay đã gây cái chết cho hơn 200,000 người và 2 triệu người phải bỏ nhà tản cư.
Việc Hồng Y Pedro R. Saenz tình nguyện đứng ra thương thuyết được báo giới Colombia coi là một hành động anh hùng. Quân du kích Cộng sản FARC là những đệ tử cuồng tín của Che Guevara, tay tổ Cộng sản Cuba làm nghĩa vụ quốc tế ở Nam Mỹ Châu Latin của Đệ Tam Quốc tế cộng sản – lời người trích dẫn bản tin này) đã không hề nể vì giáo hội Công Giáo Colombia. Theo một bản báo cáo của Ủy Ban Mục Vụ Hội Đồng Giám Mục Colombia đưa ra hồi tháng 3 năm 2000, du kích FARC đã giết 2 Giám Mục, 36 Linh Mục, 2 tu huynh và 2 Thừa sai, cộng thêm vào đó là 2 Giám Mục, 5 Linh Mục và một Giáo dân thừa sai đã bị bắt cóc.
Từ khi bản tường trình được công bố cho đến nay, thêm nhiều giáo sĩ và giáo dân đã bị giết. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 2002 đã có 3 Linh Mục, 1 Tổng Giám Mục bị giết tại Colombia. Vụ giết người gần đây nhất đã xảy ra vào ngày 16 tháng 3 khi Đức Tổng Giám Mục Isalas Duarte Cancino tại Cali đã bị ám sát sau khi cử hành thánh lễ hôn phối cho nhiều đôi vợ chồng tại một giáo xứ nghèo. Trong số các Giám Mục bị giết có GM Giramillo Monsave tại Arauca đã bị bắn khi Ngài dừng lại trên đường vào ngày 2 tháng 10 năm 1989, Giám Mục Hector Lopes, Giám quản tông tòa tại Ariari đã bị bắt cóc vào ngày 25 tháng 10 năm 1997 bởi Lực lượng FARC, cùng bị bắt còn có một linh mục và nhiều người làm việc cho nông trại. Đức Giám Mục Jose Quintero Diaz tại Tibu đã bị đe dọa tính mạng 2 lần, lần đầu vào ngày 24 tháng 11 năm 1997, và Ngài bị bắt giữ trong 16 ngày; vào ngày 15 tháng 8 năm 1999 Ngài cũng bị bắt nhưng sau 35 ngày Ngài đã trốn thoát được.
Trong số các linh mục bị giết còn có Đức ông Jaime Bonilla Niete, Chủ tịch Ủy Ban phục vụ cho người di dân của Tổng Giáo Phận. Ngài bị giết trong đêm 22 rạng 23 tháng 12 năm 2001.
Giáo Hội Công Giáo Colombia đã dành ngày 15 tháng 8 năm 2002, ngày kính Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, để cầu nguyện cho cuộc thương thuyết thành công và sự an bình của Đức Hồng Y Saenz.
Hiện nay, phiến quân FARC đã đồng ý gặp Đức Hồng Y Saenz. ĐHY giải thích rằng Ngài tình nguyện gánh vác công việc này vì lý do Nhân đạo.
Chương trình Phát thanh Lương Tâm Công Giáo xin quý thính giả đang nghe bản tin hiệp lời cầu nguyện cho Đức Hồng Y Pedro Rubiano Saenz được Chúa quan phòng trong nhiệm vụ cao cả này.

Tin thứ 2 mà chúng tôi muốn gởi đến quý thính giả là tin về tạp chí Công Giáo tại Cuba kêu gọi tổng tuyển cử tự do, bản tin có nội dung như sau :
(trích Vietcatholicnews thứ sáu ngày 16 tháng 8 năm 2002)
Trong bài xã luận 5 trang, Nguyệt san Vitral số ra tháng 7 và tháng 8 đã mạnh mẽ kêu gọi một cuộc thảo luận công khai về tương lai của đất nước và đặt lại vấn đề về sự tồn tại của Đảng Cộng Sản Cuba do nhà độc tài Fidel Castro lãnh đạo vì : “Mọi thứ, mọi dự án và mọi con người không thể tồn tại mãi mãi”.
Bài xã luận đưa ra những thay đổi rõ rệt mà Cuba đã chứng kiến trong các năm qua, đặc biệt là những thay đổi trong nhận thức của người dân về tự do và nhân quyền. Tờ báo lý luận rằng, những thay đổi này là không thể tránh khỏi và “đối diện với những đổi thay này con người phải là vai chính và trung tâm của mọi thay đổi”.
Tờ báo cảnh cáo rằng : đóng lại những cánh cửa dẫn đến những thay đổi là đóng lại những chuyển hóa dần dần trong hoà bình, và chúng ta đều biết rằng thay đổi là quy luật của cuộc sống và nếu không diễn ra theo một trật tự thì sẽ có sự bùng nổ là điều không ai muốn.
Các nhà phân tích thời cuộc nhận định rằng, việc tờ Vitral đưa ra bài xã luận cho thấy rõ ý kiến của những nhà lãnh đạo Công Giáo tại Cuba muốn ủøng hộ cho “Đề án Valera” do ông Alberto Paya , chính trị gia công giáo đối lập với chế độ, khởi xướng. Đề án Varela kêu gọi trưng cầu dân ý để giải thể đảng Cộng sản Cuba, một tổ chức phản dân hại nước với những chính sách kềm kẹp sự đi lên của đất nước với một guồng máy tham quan ô lại.
Trong khi đảng Cộng sản Cuba luôn ra sức kể công và đe nẹt dân chúng rằng, nếu không để đảng Cộng sản cầm quyền thì sẽ có vô số những khó khăm sẽ xảy ra, bài xã luận đã có những câu trả lời rất đanh thép như: “Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra chính là việc xem thường khả năng của người Cuba muốn được tự làm chủ lấy mình”.

Lương tâm công giáo được biết bài xã luận được nêu ra tiếp theo lời tuyên bố của Đức Giám Mục Salvador Riveron Cortina thách thức nhà nước cộng sản Cuba dám đối thoại công khai.
Ngày 4/6/02 Đức Giám mục Salvador Riveron Cortina, giám mục phó giáo phận Havana, thủ đô Cuba thách thức nhà nước Cuba dám đối thoại công khai với Giáo hội về những hạn chế tôn giáo mà nhà nước lặng lẽ tiến hành.
Trong diễn văn đọc tại tu viện dòng Đa Minh San Juan de Letran tại Havana hôm thứ năm 30/5/02, Đức Giám mục cho biết Giáo hội muốn có một cuộc đối thoại “thành thật, tôn trọng và xây dựng”. Ngài nhận định rằng, một số các thành phần cứng rắn trong đảng cộng sản vẫn tiếp tục làm đủ mọi cách để ngăn cản các hoạt động xã hội và giáo dục của Giáo Hội Công giáo tại Cuba. Thêm vào đó, một “đám mây im lặng” đang bao trùm các phương tiện thông tin của nhà nước và các hoạt động của Giáo hội.
Được biết, để tuyên truyền cứu nguy cho chế độ cộng sản đang lụi tàn ở Cuba, Fidel Castro đã khẩn thiết mời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị viếng thăm đảo quốc Cuba vào tháng giêng năm 1998, nhưng từ đó đến nay Đảng Cộng sản không hề nới tay trong việc xiết chặt kiểm soát các hoạt động tôn giáo ở đảo quốc này mà 87% người dân theo đạo Công Giáo.

Bản tin thứ ba mà chúng tôi gởi đến quý thính giả là ở một nước có tới 90% người dân theo Hồi Giáo. (Trích ViệtCatholic News)
Tin vui bất ngờ là Toà án tối cao Pakistan đã tha bổng anh Ayub Masih, một giáo dân công giáo bị buộc tội Phạm thánh.
Trong một quyết định bất ngờ hôm thứ năm 15 tháng 8 năm 2002, đúng ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, toà án tối cao Pakistan đã tuyên bố anh Ayub Masih vô tội và rằng, những người đã tố cáo anh chỉ vì tư thù mà tố cáo anh đã nói xấu tiên tri Mohammed của đạo Hồi. Anh Ayub Masih được phóng thích ngay tại toà án. Vụ án của anh Masih là một vụ án vô cùng bi đát đã dẫn đến cái chết của một vị Giám Mục Công Giáo, theo nhiều nguồn tin thì cho rằng Ngài tự sát (?) để phản đối sự đàn áp của người Hồi Giáo đối với người Công Giáo tại Pakistan qua điều luật khắc nghiệt về Phạm thánh.
Trong vụ án này, rất nhiều cơ quan pháp luật của công giáo trên thế giới đã tham dự vào và đã gần như bất lực trước sự ngang ngược của nền tư pháp Pakistan. Ngày 5 tháng 6 năm 1998, thế giới bàng hoàng trước tin Đức Giám Mục Công Giáo John Joseph bắn một viên đạn vào đầu mình (?) ngay tại tòa án ở Sahiwal Session, tại Pakistan để phản đối việc kết án bất công một thanh niên công giáo tên Ayub Masih 27 tuổi.
Anh Ayub Masih bị tố cáo tội phạm thánh và chiếu theo luật hồi giáo anh phải bị kết án tử hình vì có người tố cáo rằng anh đã nói xấu tiên tri Mohammed của Hồi giáo. Những người đó đã tố cáo rằng anh đã xúi giục người Hồi Giáo hãy tìm đọc cuốn những Vần thơ của Satan (Verses of Satan) của tác giả Salmon Rushdie để biết rõ mặt thật của Hồi Giáo.
Thật ra thì, theo điều tra của Ủy Ban Nhân Quyền Á Châu (Hồ sơ AHRC/UA980508, 8 May 1998) câu chuyện bắt đầu từ những tranh chấp về đất đai của những người Hồi giáo trong vùng đã chiếm đất phi pháp nhưng muốn 17 gia đình Công Giáo rút lại đơn thưa kiện họ đã chiếm đất bất công, họ đã sử dụng luật phạm thánh như là một cách thế hiệu quả để trấn áp những người Công Giáo này.
Đức Giám Mục John Joseph 66 tuổi, là giám mục giáo phận Faisalabad ở miền trung Punjab từ năm 1981, đồng thời là chủ tịch Ủy Ban Nhân Quyền Công Giáo thuộc Hội Đồng Giám Mục Pakistan. Ngài là một người tranh đấu rất quả cảm cho nhân quyền, đặc biệt quyền tự do tôn giáo tại nước này. Sau cái chết kinh hoàng của Ngài, Hội Đồng Giám Mục Pakistan họp khẩn cấp tại Lahore và ra tuyên cáo, khẳng định rằng : “Không thể gọi cái chết của Ngài là một vụ tự sát. Ngài đã tự hy sinh đời mình để tranh đấu chống lại bất công”.
Anh Ayub Masih mù chữ thì làm sao anh có thể đọc được cuốn “Những vần thơ của Quỷ” và rằng, thậm chí cả sách báo anh cũng mù tịt nốt, thế nhưng người ta vẫn gán cho anh cái án tử hình; vì nếu quan toà không kết án anh thì chính ông ta sẽ bị kết án tử hình vậy. Do đó, qua 2 phiên của Toà dưới, anh đã bị kết án tử hình một cách phi lý; và chỉ sau cái chết của Đức Giám Mục John Joseph, lương tâm của những ông tòa tối cao Pakistan mới bị lay động. Thật chính là Đức Giám Mục đã đem sự sống lại cho anh Ayub Masih bằng chính mạng sống của Ngài.
Trường hợp này làm chúng tôi liên tưởng đến Thánh Maximilian Kobe một người cũng đã tình nguyện chết thay cho một tử tội Đức Quốc Xã. Sau này, Ngài được tôn phong hiển thánh và đã được mọi người thuộc mọi tôn giáo ưa thích, “một nhân chứng hào hùng về sức mạnh bất khuất của tinh thần con người” như Hội sách Doubleday History vinh tặng : Thánh LM Maximilian Kobe.

2. Vài suy nghĩ về thái độ của Hàng Giáo Phẩm Việt Nam
Qua những tấm gương anh hùng của các vị Hồng Y, Giám mục trên khắp thế giới một thế giới với nhiều bất trắc, khó khăn đôi khi nghiệt ngã như trường hợp Đức Giám Mục John Joseph của Pakistan, những hiểm nguy trưóc mặt như trường hợp Đức Hồng Y Pedro Rubiano Saenz của Colombia. Thế nhưng các Ngài vẫn dấân thân, có khi vì tình người, tính nhân đạo bác ái của người Kito Hữu, có khi vì phản ứng đối với những bất công trong xã hội, ở khía cạnh nào các Ngài cũng không quên bổn phận chủ chiên sẵn sáng chết vì đàn chiên.
Trở lại trường hợp Việt Nam, phải nói rằng chúng tôi vô cùng xót xa vì thái độ im lặng của các đấng các bậc trong Hội Đồng Giám Mục Việt nam. Hãy đơn cử trường hợp Cha Nguyễn Văn Lý. Ngài là một con người quả cảm và biết đứng về lẽ phải dù rằng bạo lực cộng sản có thể sẽ nghiền nát người.
Nếu không có những vụ trục xuất phi lý 2/5 số chủng sinh đại chủng viện Huế. Nếu không cấm cản việc dạy giáo lý trong nhà thờ Đốc Sơ. Nếu không có cấm cản đoàn giáo dân đi hành hương Đức Mẹ La Vang. Nếu cộng sản VN không xen lấn vào việc tuyển chọn chủng sinh, phong chức Linh Mục. Nếu không có vụ chiếm đất của nhà thờ Nguyệt Biều thì LM Nguyễn Văn Lý cũng sẽ như bao nhiêu vị LM khác, sống đời phụng vụ lời Chúa và cuộc đời Ngài cũng sẽ êm ả trôi cho đến ngày mãn cuộc đời. Nhưng Cộng sản không muốn thế, chúng xen lấn vào việc điều hành giáo hội, khốâng chế một cách tinh vi các Đức Giám mục, làm cho Giáo Hội bị mai một tàn rụi, như loài nhện độc rút hết sinh mạch của con mồi để Giáo Hội Việt Nam chỉ còn cái xác không hồn, chỉ còn cái vỏ bọc màu mè bên ngoài.
Trước âm mưu thâm độc như thế, Lm Nguyễn văn Lý đã không thể ngồi im thúc thủ. Ngài đã noi gương các bậc tử đạo và noi gương Đức cố Tổng Giám Mục bản quyền Nguyễn Kim Điền đã thẳng thắn viết thư cho CSVN rằng “Sau hai năm cọ sát với thực tế, tôi thấy Việt Nam không có tự do tôn giáo”.
Chính vì vậy mà từ năm 1975 Lm Lý đã bao lần bị Cộng Sản bỏ tù, và mới đây nhất, Ngài bị đã điệu ra trong một phiên toà xử đầy bất công và bạo ngược, bị kết án 15 năm chỉ vì Ngài đã dám nêu lên một sự thực mà nhiều đấng bậc muốn giả ngơ: “TỰ DO TÔN GIÁO HAY LÀ CHẾT”.
Vâng, đàng nào rồi cũng chết, tại sao ta không theo đưổi một cái chết có ý nghĩa, một cái chết có lợi ích cho xã hội, cho tôn giáo. Hãy theo đuổi cho đến cùng một lý tưởng của cuộc sống của chúng ta, dù gặp chông gai thử thách, nhưng vẫn còn ý nghĩa, vẫn còn một giá trị nào đó.
Thật đáng buồn cho Giáo Phận Huế, chính vì CSVN đã triệt hạ được Lm Lý nên chúng mới thừa thắng xông lên, bây giờ không chỉ Giáo Xứ Nguyệt Biều mất đất mà Loan Lý, Cồn Tiên, La Vang và ngay tại thành phố Huế, nơi có Tòa Tổng Giám Mục, Cộng sản cũng ngang nhiên chiếm đất của Hoan Thiện, của dòng khổ tu Thiên An. Chúng cũng ngang ngược chiếm đoạt đất đai của nhà thờ để làm chỗ ăn chơi sa đoạ.
Có phải đó là một sách lược dùng để triệt hạ Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hay không, mà chúng tôi thấy ở bất cứ chỗ nào cộng sản cưỡng đoạt đất đai của nhà xứ nhà chung cũng đều để mở ra các tụ điểm ăn chơi du hí. Khu đất nhà thờ Chính tòa Hà Nội cũng không nằm ngoài sách lược đó. Có phải Cộng sản dùng phèng la trống phách, dùng con gái ăn mặc hở hang, dùng lời ca tiếng hát dâm dật để khủng bố ngày đêm các vị chân tu, để lung lạc tinh thần Hàng Giáo Phẩm, và để dụ dỗ các Ngài sa ngã hầu khống chế các Ngài hay không ?
Nếu tại Nguyệt Bìêu trước đây, Lm Lý được sự hỗ trợ của đấng bản quyền thì ngày nay làm sao CS dám lấn chiếm Loan Lý, Cồn Tiên, La vang hay Thiên Ân. Nếu nói Cha Lý có vấn đề nên không được hỗ trợ, vậy Lm Cái Hồng Phượng, Đức Đan Viện Phụ Huỳnh Quang Sanh cũng có vấn đề sao ? Người ta nói, quanh co che đậy cho lắm thì rồi sự thật cũng lòi ra ! Thật là xấu hổ cho những Lm dám đi ra hải ngoại rỉ tai đặt điều nói xấu cha Lý. Các Ngài chỉ muốn tiền của giáo dân hải ngoại về chia nộp cho các cán bộ CS trong nước, nên bịa chuyện, rỉ tai cha Lý thế này, thế nọ... như một mở đầu câu chuyện xin tiền. Các Ngài độc ác lắm thay ! Quý vị đó có còn là anh em trong LM đoàn với cha Lý, Cha Giải, với cha Lợi, cha Phượng nữa không nhỉ ?
Cũng trong ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tại bên kia bờ đại dương chúng tôi vui mừng trong dè dặt được biết đến bài giảng thuyết của Đức Cha Ngô Quang Kiệt, Giám Mục Giáo Phận Lạng Sơn, trong đại lễ kính viếng hành Hương Thánh Địa La Vang lần thứ 26, trong đó Ngài đề cập đến ý nghĩa của hai chữ “Ra Khơi” mà Đức Thánh Cha đã ân cần nhắn nhủ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam hồi đầu năm trong huấn từ của Ngài nhân lễ viếng mộ thánh Phêrô và Phaolô của 26 vị Giám Mục Việt Nam. Đến bây giờ chúng tôi mới được nghe một vị Giám Mục VN lên tiếng về vấn đề “ra khơi”. Có muộn màng chăng khi lời Đức Thánh Cha ban cho các Ngài đến nay đã gần tròn tám tháng, trong lúc đó CSVN ngày càng lấn lướt Giáo Hội.
Được biết tháng 10 tới đây là dịp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhóm họp thường niên, không biết các Ngài có đem huấn từ của Đức Thánh Cha ra để thảo luận, để dấn thân, để “ra khơi” như lời Đức Thánh Cha đã mời gọi, đã nhắn nhủ, hay lại không dám đề ra khi nộp nghị trình cho Ban tôn giáo chính phủ duyệt trước. Vị Cha Chung muốn chúng ta, muốn HĐGMVN trỗi dậy vén lưới, nhổ neo đưa thuyền ra khơi, đối đầu với bão táp, với biển sâu, với hiểm nguy trước mắt, để tranh đấu cho con chiên, để bảo vệ con thuyền Giáo hội : “Tự do Tôn giáo hay là chết”. Ngài bảo : “Hãy noi gương các vị tiền nhân tử đạo oai hùng của các con” hãy ra khơi và sẵn sàng đương đầu với sóng gió, hãy đấu tranh để dành quyền căn bản cho “con người và con Chúa”, hãy bảo vệ quyền tối thiểu và tài sản của Giáo hội. Ngài không bảo quí vị cứ ngồi ỳ ra đó, đừng tranh đấu gì cả, viện cớ rằng phải nhẫn nhục và tha thứ, phải ngồi chờ cho sung nó rụng. Vì nhân đạo, một Hồng Y Saenz của Colombia sẵn sàng vào hang cọp để thương thuyết với nhóm phiến Cộng từng giết bao Giám mục và linh mục, vì đấu tranh cho công bằng xã hội, chống lại sự bất công của nền tư pháp Pakistan mà Giám mục John Joseph phải quên mạng sống mình chỉ cần để cứu một mình Ayub Masih. Bao giờ mới thấy được một đấng bản quyền Công giáo tại Việt nam dám mạnh dạn “công khai tranh luận và đối chất” với nhà nước CSVN, trên hệ thống truyền thanh và truyền hình, về Tự do Tôn giáo như Đức cha Salvador Riveron Cortina, Giám mục phó giáo phận Havana, đã thách thức đảng CS Cuba. Đã là người, ai cũng phải chết, tại sao không chọn cái chết vinh quang có lợi ích cho xã hội nhân quần, hậu thế mang ơn.
Muộn nhưng không phải quá trễ, Giám mục Ngô Quang Kiệt, Phó Tổng thư ký HĐGMVN, đã nói đến “Ra khơi”, đã nhắc nhở mọi người Công giáo, cả giáo dân cũng như hàng giáo sĩ hay tu sĩ, phải trỗi dậy gom lưới để nhổ neo chạy tầu ra khơi. Hãy chấp nhận mọi gian khổ trước mặt để đòi cho được quyền làm “con người và con Chúa”. Hãy thét lên : “Trả ta Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền. Hãy trả lại cho ta” !

Trần Việt Yên
San Jose, ngày 20-8-2002

TƯỞNG NIỆM BIẾN CỐ ĐAU THƯƠNG KHỦNG BỐ “NÓNG” 9/11 TẠI HOA KỲ,




SUY NGHĨ VỀ SỰ KHỦNG BỐ “LẠNH”
CỦA ĐẢNG CSVN TRÊN DÂN TỘC VIỆT NAM


Dân chúng Hoa Kỳ, cách riêng dân chúng New York, đang bồi hồi tưởng niệm biến cố đau thương đã xảy ra vừa tròn hai năm.
Đúng 8 giờ 46 ngày 11 tháng 9 năm 2001, bọn không tặc đã cướp một chiếc Boeing 747 với hàng trăm hành khách trên đó. Bọn chúng đã cảm tử lái chiếc máy bay khổng lồ lao vào tầng thứ 73 của tháp phía Bắc của toà nhà tháp đôi World Trade Center (WTC) giữa thành phố New York, phút chốc khói lửa bừng lên khi hàng trăm ngàn gallons nhiên liệu của chiếc máy bay bị cháy nổ bùng. Khoảng 18 phút sau một chiếc máy bay khác cũng bị không tặc lao vào toà tháp còn lại, thế là cả hai tòa tháp cháy bùng lên trong mù mịt khói lửa và bụi tro. Trên màn ảnh nhỏ người ta chiếu đi chiếu lại cảnh hai chiếc máy bay lao vào toà tháp, rồi cảnh đoàn người lũ lượt hoảng hốt túa chạy trong khói và bụi, cảnh toà tháp đôi đổ sụm xuống, người xem có cảm tưởng như cảnh dàn dựng trong phim ảnh, nhưng đáng buồn thay đó lại là sự thực.
Tấn thảm kịch không chỉ dừng lại ở đó, tại Ngũ Giác Đài (Pentagon) của bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, một chiếc máy bay khác nữa cũng bị không tặc lao vào góc phía Tây Nam của tòa nhà đồ sộ này, nơi thường có khoảng 23.000 người đến làm việc hàng ngày. Lần đầu tiên cảnh tượng chiến tranh, chết chóc, tàn phá xảy ra ngay trên lãnh thổ Hoa Kỳ, ở một thành phố tiêu biểu cho siêu cường Hiệp Chủng Quốc.
Kết quả tại New York, cuộc khủng bố “nóng” đã gây ra cái chết cho 2801 thường dân Hoa Kỳ. 343 người lính Cứu Hỏa và 23 cảnh sát viên của thành phố New York đã can đảm cứu thường dân mắc kẹt trong tòa tháp và đã hy sinh vì nhiệm vụ. Trong đó, ta không thể quên được cha Mychal F. Judge, vị linh mục Tuyên úy của đội cứu hỏa thành phố New York. Khi hay tin có khủng bố, và với nhiệm vụ tông đồ của mình, cha đã theo chân những người lính cứu hỏa xông vào hành lang của Tháp thứ nhất để hòng cứu rỗi các linh hồn của những nạn nhân đang hấp hối. Cuối cùng, chính Ngài lại là nạn nhân đầu tiên được mang ra ngoài... Toà tháp đôi trị giá hàng nửa tỉ đô la phút chốc đổ sụm. Riêng tại Ngũ Giác đài có 184 người chết và 380 bộ (feet) của tòa nhà bị phá hủy. Thêm vào đó là 45 người có mặt trên chuyến bay 93 trên đường từ Newark, N.J, đến San Francisco, CA, đã đâm đầu xuống gần một khu rừng tại Pittsburg, bang Pensylvania.
“LET’S ROLL” (NÀO RA TAY)
Đó là những lời cuối cùng của hai hành khách Mark Bingham và Todd Beamer khi đã quyết định phải phản công chống lại bọn khủng bố không tặc 4 người. Người ta tin rằng hai người này đã tông vào phòng lái, vật lộn với không tặc để chiếc phi cơ không thể bay đến mục tiêu là tòa Bạch Ốc (White House) hay tòa nhà Quốc Hội (Capitol). Ai cũng cho rằng đó là hành động hợp lý, đúng lúc, rất nhiệt tình yêu nước và anh hùng. Họ đã quên thân mình để cứu được bao nhiêu mạng người khác trên mặt đất, tại một trong hai tòa nhà nói trên.
Phản ứng của dân chúng Hoa Kỳ hết sức tức giận vì hành vi tàn bạo dã man của những kẻ chủ trương, do đó chỉ hai tháng sau, mạng lưới Al-Qaida của Osama bin Laden và đồng minh chứa chấp là Taliban của Afghanistan đã bị sức mạnh của không lực Hoa Kỳ xóa bỏ. Mạng lưới khủng bố bị truy tầm và tận diệt khắp nơi. Cả thế giới lên án và hợp tác tiêu diệt khủng bố “nóng” do các phần tử Hồi giáo quá khích chủ trương.
Kỷ niệm một năm ngày tang tóc, Hoa kỳ và thế giới hướng về New York để tưởng niệm các nạn nhân vô tội để nhắc nhở và cảnh giác với hiểm họa khủng bố “nóng” dù đã bị đập tan nhưng chưa hẳn đã chấm dứt. Trùm khủng bố Osama bin Laden vẫn còn là một ẩn số bí mật mà Hoa Kỳ và thế giới đang ngày đêm cố công tìm cho được “dù sống hay chết” như lời khẳng quyết của Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush.
Nước Mỹ với hơn 200 năm lập quốc, đây là lần đầu tiên có một kẻ thù từ bên ngoài dám tìm đến ngay tại nơi trọng yếu để thực hiện ý đồ khủng bố tàn bạo, một cuộc sát nhân tập thể, thật dã man. Nó đã dấy lên một cao trào yêu nước trong mỗi người dân Hoa Kỳ và sự đồng lòng rằng kẻ ác phải bị trừng trị.
Cộng đồng người Việt Tỵ nạn Cộng sản định cư tại Hoa Kỳ cùng chia xẻ niềm đau thương mất mát với dân chúng Hiệp Chủng Quốc. Kỹ sư Nguyễn ngọc Khang người Mỹ gốc Việt cũng đã thiệt mạng khi đang làm việc với tư cách nhân viên dân sự thuộc Bộ Quốc Phòng HK.
Trong niềm chia xẻ nỗi bất hạnh với dân tộc Hoa Kỳ, người Việt chúng ta bùi ngùi nhìn về quê nhà nơi đồng bào Việt Nam đang lầm than cơ cực trong gọng kềm “khủng bố trắng” của đảng Cộng sản Việt Nam, một hạng người vong bản tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai. Lợi dụng cơ hội Hoa Kỳ và thế giới đang bận tâm với bọn khủng bố Al-Qaida nên chúng đã gia tăng đàn áp, khủng bố trắng trợn và tàn bạo thêm đối với những ai đòi tự do và nhân quyền.
Thật thế, với bản chất khát máu dã man, Cộng sản Việt Nam càng siết chặt thêm gọng kềm khủng bố “lạnh” trên các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo. Thấy thế giới phản ứng không đủ quyết liệt khi chúng giam lỏng Hòa Thượng Thích Quảng Độ chúng bèn đem Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý ra trước một phiên tòa quái đản, kết án Người 15 năm tù giam và 5 năm quản chế. Cộng sản còn đi xa hơn qua hành động cướp đất đoạt tài sản của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam như vụ nhà thờ Chính toà Hà Nội, nhà thờ Thái Hà Hà Nội, nhà thờ Loan Lý, nhà thờ Bàu Gốc, Dòng Thiên An, Thánh địa La Vang, Thánh địa Trà Kiệu, đàn áp các giáo dân nhỏ bé khốn khổ đáng thương ở An Truyền và Nguyệt Biều để trả thù vì họ đã dám đứng lên ủng hộ Cha Lý đòi Tự do Tôn giáo và đòi lại miếng đất của nhà thờ Nguyệt Biều đã bị chúng cướp trắng.
Điều đáng buồn là dù bị đàn áp dã man như thế, trắng trợn như thế, con cái bị trù dập khủng bố như thế, tài sản bị cướp bóc như thế, nhưng HĐ/GMVN vẫn chọn lấy thái độ im lặng, dù các vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan PhaoLô Đệ Nhị khuyến khích hãy can đảm “ra khơi”. Không biết các Ngài có khi nào chạnh nhớ đến những đàn chiên đang bơ vơ giữa giông tố bách hại không, có khi nào các Ngài nhớ đến người tù lương tâm Nguyễn Văn Lý đang cô đơn trong bốn bức tường nhà tù lạnh lẽo nơi xứ Bắc xa xôi không ? Hay các Ngài thấy cộng sản cho các Ngài được dự các buổi lễ lạy đông đảo hào nhoáng bên ngoài, được thong dong đi ra nước ngoài gặp gỡï con chiên lưu lạc, để quyên góp về mua xe đời mới sang trọng, quyên góp xây nhà thờ đồ sộ, vô tình hay hữu ý làm bằng chứng cho CS tuyên truyền rằng đã có tự do tôn giáo ở Việt Nam rồi. Các vị quên đi những tài sản CS đã cướp đoạt, đang cướp đoạt thêm và lăm le cướp đoạt nốt, để quên đi những thủ đoạn CS hèn hạ cho xây nhà thờ đồ xộ rồi kiếm cớ vận động thuyên chuyển cha xứ này đi, đưa cha khác mà chúng ưa thích về chiếm ngụ, quên đi những bác bỏ thẳng thừng của cộng sản mỗi khi các Ngài cầu xin chúng để được đi đến các giáo xứ hẻo lánh để làm mục vụ.
“Trước những tấn công tàn bạo của nhóm võ trang Hồi giáo, Đức Tổng Giám Mục Henri Tessier của giáo phận Algers, kêu gọi dân chúng hãy đứng dậy đối kháng Bạo lực”. Đó là những dòng đầu tiên trong bản tin mà Vietcatholic News (ngày 24/8/2002) đã loan dưới tựa đề : Tại Algeria, Giáo Hội kêu gọi dân chúng hãy đối kháng Bạo lực. Ngày 21 tháng 5 năm 1996, 7 đan sĩ Công giáo bị giết chết ở Tibhirine và tiếp theo vào ngày 1 tháng 8 thì Đức Giám mục Claverie bị ám sát. Chịu đựng hết nổi, Đức TGM phải kêu gọi giáo dân đối kháng với người Hồi giáo quá khích. Con giun xéo mãi cũng oằn.
Còn Việt Nam ta thì sao ? Thái độ im lặng trong hoàn cảnh như hiện nay, dù biện bạch cách nào thì cũng chỉ thể hiện một thái độ khiếp nhược, một thái độ đồng lõa với sự ác. Hình ảnh HĐ/GMVN hiện nay chẳng khác nào có một bọn cướp xông vào nhà phú hộ kia, trói con cháu thanh niên trai tráng trong nhà, rồi ra tay cướp bóc từ đồ tế nhuyễn đến của riêng tây, cụ già phú hộ vì già yếu được chúng để ngồi trên ghế không cần trói tay hay bịt mắt. Cụ phú hộ cho đó là đặc ân và cám ơn rối rít vì cho là bọn cướp còn nhân đạo chán ! Thế rồi có một vài thanh niên con cháu cụ thì thầm muốn xông ra đối địch với quân cướp để lấy lại tài sản thì bị cụ giả lơ không nghe, không thấy và đôi khi còn mắng át con cháu rằng đừng làm gì để rồi chúng lấy chán thì chúng sẽ trả lại, chống cự chúng lỡ chúng giết cả ta thì sao ?!!
Đó, cái nhân đạo có điều kiện của cộng sản là như thế đó, sự khủng bố lạnh của cộng sản đã tiến hành từ lâu khiến nhiều đấng bậc đang trong vòng dây oan nghiệt mà cứ tưởng được thong dong không vướng bận, không trở ngại nào, các vị cứ im lặïng thì bản thân được thong dong nhưng cuối cùng tài sản của cụ già phú hộ còn gì ? Con cháu sau này sinh sống ra sao ? Có lẽ đó không phải là trách nhiệm của cụ, của bậc chủ gia đình hay sao ?
Trong bối cảnh thế giới chống khủng bố “nóng” như hiện nay, thật khó cho chúng ta lên tiếng đánh động chú ý của thế giới đối với sự khủng bố “lạnh” của CSVN, nhưng khó cách mấy chúng ta vẫn phải làm, chúng ta phải làm bằng hết cả tâm huyết, bằng hết cả trí óc và bằng lương tâm công giáo của mình, chúng ta cứ làm và dâng lên Thiên Chúa với tất cả tấm lòng, chắc chắn Ngài sẽ không nỡ chối từ, mà sẽ can thiệp như khi xưa Ngài đã ban cho dân Israel một vị cứu tinh là Mai-sen, để đưa dân tộc Do Thái thoát khỏi Ai Cập, vượt qua eo biển và đến được đất hứa.
Một điều cực kỳ quan trọng và nghiêm trọng mà chúng ta và cả thế giới tự do phải hiểu rằng: “Cộng sản giết người luôn luôn không chảy máu” !
Bao giờ ta mới có được một cha “Mychal F. Judge” của Việt Nam, dám xông vào lửa đỏ chỉ để cứu người, mà không màng đến thân mình. Một Todd Beamer hay Mark Bingham, quên đi mạng sống của mình, vật lộn với Cộng sản vô thần để không cho chúng thực hiện được ý đồ tiêu diệt Tôn giáo, nhất là Giáo hội Công giáo VN. Biết tìm đâu cho được một Tổng Giám Mục Tessier cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, là người dám hô hào giáo dân đòi lại Tự do Tôn giáo và Nhân quyền đích thực cho Việt Nam.
Trần Việt Yên
Viết cho LTCG nhân ngày tưởng nhớ biến cố 9-11

Cám ơn Wolrd Cup, Cám ơn FIFA,(2)


Chúng tôi, những người Việt Nam hằng ấp ủ lá cờ vàng trong tim xin chân thành cám ơn những người tổ chức FIFA, dù chỉ là ngẫu nhiên , nhưng hành động của các vị đã an ủi chúng tôi, an ủi vong linh anh hồn tử sĩ VNCH.

Cánh nay tròn bốn năm , khi xem truyền hình trực tiếp vòng chung kết giải Túc Cầu Thế Giới được tổ chức ở Nam Hàn và Nhật Bản, tôi đã vô cùng xúc động khi thấy hình ảnh lá cờ Việt Nam Cộng Hoà 3 sọc đỏ được biểu hiện trước mỗi trận đấu .
Hình ảnh đó năm nay lại xuất hiện, tiếc là tôi không còn giữ được bài
viết cũ , nên nay viết lại. Dù sao, những dòng biểu lộ tình cảm xúc động ngày nay thể hiện qua bài viết chắc là không thể rung động bằng cách nay 4 năm " cái Thuở ban đầu lưu luyến ấy ", khi lần đầu tiên nhìn thấy lá cờ Thân yêu của tổ Quốc Việt Nam
Trở lại với sân cỏ nước Đức năm nay, hình ảnh các em bé mặc chiếc áo thung vàng với ba vạch màu đỏ tươi từ bả vai tới cánh tay, dắt tay từng cầu thủ của 32 đội bóng lừng danh thế giới bước vào cầu trường , có em còn tươi cười vẫy chào khán giả khắp năm châu qua ông kính truyền hình trực tiếp, các em sắp hàng tươi vui trước hai đội bóng và cùng nghiên chỉnh chào quốc kỳ mỗi nước . Có thể nói chưa có một lá cờ nào hiện diện trên sân cỏ FIFA nhiều hơn hình ảnh lá cờ Quốc Gia Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ các em trình diễn cùng khán giả khắp năm châu .
Không hiểu đó có phải là hồn thiêng sông núi rung rủi để Miền Nam thân
yêu dù bị bức tử, bị phản bội nhưng vẫn hiển hiện cùng anh hào thế giới trên sân cỏ mỗi lần World Cup lại về
Chúng tôi, những người Việt Nam hằng ấp ủ lá cờ vàng trong tim xin chân thành cám ơn những người tổ chức FIFA, dù chỉ là ngẫu nhiên , nhưng hành động của các vị đã an ủi chúng tôi, an ủi vong linh anh hồn tử sĩ VNCH.
Xin cám ơn tuổi trẻ nước Đức, các em là tương lai mai này của nước Đức tự do và thống nhất, các em đang khoác lên mình linh hồn tổ quốc VNCH
chúng tôi, hy vọng một ngày mai tươi sáng, lá cờ vàng thân thương của dân tộc Việt Nam lại tung bay ngạo nghễ trên mảnh đất thân yêuhình cong chữ S bên bờ Thái Bình Dương .
Hiện tại các em đang khoác lên mình biểu tượng của khát vọng tự do của
dân tộc Việt Nam đang đám chìm trong nghèo nàn lạc hậu và áp bức, mỗi lần nhìn thấy các em lòng tôi lại rưng rưng xức động, và hy vọng cứ như đóm than hồng trong đêm tối cứ chực bừng lên trước gió .
Xin cám ơn World Cup, xin cám ơn FIFA, dân tộc Việt Nam yêu chuộng tự do xin một lần nữa ngỏ lời cám ơn các vị .

Trần Việt Yên

3.1.08

Ngủ không ngon nên ăn gì?

Mục bảo vệ sức khỏe

Bài viết của BS. Hoàng Xuân Đại

Nhiều nghiên cứu cho thấy người già ngủ không ngon giấc đa phần là do tâm khí và tâm huyết hư khuyết gây nên. Vì vậy trong cách trị liệu, việc điều chỉnh ăn uống góp phần hết sức quan trọng làm lui bệnh đạt hiệu quả cao. Đó là ăn uống cần thanh đạm, dễ tiêu hóa như một số thực phẩm: ngũ cốc các loại, đậu các loại cũng như mọi chế phẩm về đậu, rau xanh, hoa quả, các loại nấm, cá sông, suối, ao hồ, biển, các loại thịt nạc, thịt gia cầm, sữa bò... hay bách hợp, hạt sen, sơn dược, gạo tẻ..., nấu cháo ăn nhưng lại cần kiêng các thức như trà đặc, cà phê, các thức béo ngậy, ngọt, nặng mùi như thịt mỡ các động vật, nội tạng động vật hay các thức chứa nhiều hàm lượng cholesterol, ngay cả các thức ăn ngọt, mặn cũng cần hạn chế.
Sau đây là những món ăn thuốc dùng phối hợp trị liệu cho người ngủ không ngon giấc.
Món cháo thịt nạc nấm hương: Nấm hương tươi 50g, thịt lợn nạc 60g, gạo tẻ ngon 50g. Làm sạch thịt nạc và nấm hương thái nhỏ, cho vào nồi cháo lúc đang sôi gạo đã chín nở, nêm gia vị vừa miệng, bắc ra ăn hết một lần. Ngày có thể ăn 1-2 bữa.
Món cháo hợp hoan hoa: Hợp hoan hoa 10g, gạo tẻ 60g, đường phèn vừa đủ. Cho hợp hoan hoa và đường phèn vào nồi cháo đã đun chín đang sôi. Để sôi thêm 10 phút mang ra ăn hết 1 lần. Ngày ăn 1 lần, ăn trong 5-7 ngày.
Món đẳng sâm long nhãn hầm tim lợn: Đẳng sâm 20g, đương quy 10g, long nhãn cùi 10-15g, tim lợn 1 quả rửa sạch thái miếng, tất cả cho vào bát hầm cách thủy chín ăn cả nước lẫn cái. Ngày 1 lần, cần ăn liền 5-7 ngày.
Món canh rùa táo bách hợp: Bách hợp 30g, thịt rùa 60g, hồng táo 10 quả bỏ hạt. Tất cả cho vào nấu chín, nêm gia vị ăn, ngày 1 lần.
Món viên hạch đào, vừng, lá dâu: Hạch đào nhân 60g, vừng đen (hắc chi ma) 60g, lá bánh dâu tẻ 60g. Tất cả xay tán nhỏ trộn đều với mật ong, luyện chín hoàn viên, mỗi lần uống 9g, ngày uống 2 lần, dùng cho đến hết viên hoàn.

1.1.08

Ăn sò, tìm được ngọc trai quí - tin vui đầu năm

Đđ
Đầu năm kinh chúc quý vi có được điều may mắn như nội dung bản tin này
LAKE WORTH, Florida (AP) - Một ông đã ăn được một nửa dĩa sò hấp khi ông cắn trúng một vật cứng ở trong miệng. Sau đó ông khám phá vật cứng là một ngọc trai óng ánh màu tím.
Ông George Brock và vợ Leslie đã dành một ngày nghỉ ngơi tại bãi biển South Florida vào ngày Thứ Sáu tuần qua. Họ ghé vào tiệm Dave's Last Resort & Raw Bar để ăn sò hấp. Viên ngọc tím mà họ khám phá có trị giá mấy ngàn Mỹ kim.
Rất ít khi có viên ngọc nào được hình dạng tròn thật là tròn và có màu đẹp đáng yêu như viên ngọc tím này. Ðây là một viên ngọc hiếm,” bà Antoinette Matlins nói. Bà là chuyên gia về đá quí. “Tôi tin rằng họ đã tìm được một viên ngọc quí, đẹp, có giá trị.”
Ngọc trai màu tím thường được tìm thấy trong một loại sò lớn, vỏ rất cứng ở New England . Bên trong vỏ sò cũng có màu tím. Dĩa sò hấp được bán với giá $10. Một quản lý cho biết tiệm mua sò tại Apalachicola trong vùng tay chảo Florida .
Cặp vợ chồng họ Brock sống tại Royal Palm Beach. Họ sẽ bán ngọc trai nếu nó được định giá cao